Nhật Bản đang trong một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Lạm phát đang gia tăng, đồng Yên giảm mạnh, và một số nhà kinh tế và giám đốc điều hành công ty đổ lỗi cho chính sách lãi suất âm đã làm xói mòn khả năng cạnh tranh và chi tiêu vô kỷ luật của chính phủ. Tất cả những điều đó đã gây áp lực lên Ngân hàng Nhật Bản để cuối cùng phải tăng lãi suất.
Nhưng nỗ lực kéo dài ba thập kỷ của Tokyo nhằm vực dậy nền kinh tế trì trệ và chống giảm phát bằng chi tiêu thâm hụt khổng lồ đã đẩy nợ chính phủ lên mức cao nhất trong số các nền kinh tế lớn. Một số nhà kinh tế cho biết, bất kỳ sự gia tăng đáng kể nào về lãi suất sẽ làm tăng chi phí trả nợ, có thể gây ra một vòng luẩn quẩn vay mượn nhiều hơn với lãi suất cao hơn, kèm theo tình trạng hỗn loạn thị trường.
Chênh lệch ngày càng lớn giữa lãi suất của Nhật Bản và nước ngoài đã khiến đồng Yên của Nhật giảm 20% trong năm nay, xuống gần mức yếu nhất kể từ cuối những năm 1990. Điều đó đã làm tăng hóa đơn nhập khẩu và làm xói mòn tiền lương của người Nhật so với tiền lương của người nước ngoài.
Các công ty du lịch đang quảng bá chương trình thị thực việc làm ngắn hạn “Working Holiday” cho thanh niên Nhật Bản ở Úc, nơi mức lương tối thiểu theo giờ cao gấp đôi Nhật Bản theo tỷ giá hối đoái hiện tại. Các trang trại và nhà máy đang phải vật lộn để giữ chân những người lao động đến từ Đông Nam Á, những người có mức lương ở Nhật vốn đã rất khiêm tốn trước khi đồng Yên giảm giá.
Nhật Bản là thị trường lớn duy nhất mà doanh thu thuần của Apple Inc. sụt giảm trong năm tính đến tháng 9, điều mà các nhà phân tích cho rằng một phần là do đồng Yên yếu khiến iPhone trở nên đắt đỏ hơn.
“Nếu đồng tiền giảm giá 30% và tiếp tục giảm giá, và nếu những người lao động tài năng muốn chuyển ra nước ngoài, thì đến một lúc nào đó, Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) phải cho phép lãi suất cao hơn để duy trì hoạt động của chính phủ Nhật Bản”, Adam Posen, Chủ tịch Viện nghiên cứu quốc tế Peterson cho biết. “Nhật Bản không cần phải phát triển vượt bậc so với phần còn lại của thế giới, nhưng phải có cảm giác rằng nền kinh tế không bị thu hẹp nhanh chóng”.
Hiromichi Shirakawa, nhà kinh tế trưởng Nhật Bản của Credit Suisse, cho biết mặc dù sự yếu kém hiện tại của đồng Yên một phần là do chênh lệch lãi suất, nhưng nó cũng phản ánh “sự suy thoái về cơ cấu” của nền kinh tế Nhật Bản, đặc biệt là khả năng cạnh tranh giảm sút của các nhà sản xuất Nhật Bản.
Cho đến nay, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đã gạt bỏ áp lực thay đổi hướng đi; dự kiến sẽ giữ mục tiêu -0,1% đối với lãi suất ngắn hạn tại cuộc họp vào tuần này.
Những nỗ lực của Nhật Bản nhằm vực dậy nền kinh tế trì trệ đã đẩy nợ chính phủ lên mức cao nhất trong số các nền kinh tế lớn. Ảnh: Bloomberg
Tỷ lệ lạm phát giá tiêu dùng của Nhật Bản không bao gồm giá thực phẩm tươi sống đạt mức cao nhất trong vòng 40 năm qua ở mức 3,6% trong tháng 10. Không bao gồm giá lương thực và năng lượng, lạm phát cơ bản là 1,5%. Tăng trưởng tiền lương, mà Ngân hàng Nhật Bản từ lâu đã coi là chìa khóa để đạt được mục tiêu lạm phát 2%, gần đây đã tăng lên 2% từ 1%.
“Tại Hoa Kỳ và Châu Âu, các ngân hàng trung ương đang tăng lãi suất nhanh chóng vì họ rất lo ngại về nguy cơ rơi vào vòng xoáy tiêu cực của tăng lương và tăng giá”, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản Haruhiko Kuroda cho biết tại một cuộc họp báo vào ngày 11/11. “Tình hình ở nước ta khá khác”.
Ông Kuroda dự kiến sẽ từ chức vào tháng 4 sau 10 năm làm việc. Các nhà kinh tế đang bị chia rẽ về việc liệu BOJ có thắt chặt chính sách sau đó hay không. Nhiều người mong đợi một mức tăng lãi suất vừa phải trong quý thứ hai hoặc thứ ba, với lý do lạm phát leo thang do chi phí nhập khẩu và ban lãnh đạo mới.
Nhưng Gene Park, một nhà khoa học chính trị tại Đại học Loyola Marymount, người đã nghiên cứu về chính sách kinh tế của Nhật Bản, cho rằng ngân hàng khó có thể tạo ra một sự thay đổi lớn do lo ngại về tác động của lãi suất cao hơn đối với chủ sở hữu nhà, phần lớn trong số họ có các khoản thế chấp với lãi suất có thể điều chỉnh. cũng như đối với các doanh nghiệp nhỏ.
Có lẽ rủi ro lớn nhất từ lãi suất cao hơn là đối với chính phủ. Sau khi ông Kuroda trở thành thống đốc vào năm 2013, ngân hàng đã tăng mạnh hoạt động mua trái phiếu chính phủ và các tài sản rủi ro khác, một chương trình được mệnh danh là “khẩu bazooka của Kuroda”.
Năm 2016, Ngân hàng trung ương Nhật Bản đã công bố chính sách lãi suất âm đầu tiên của đất nước. Nhật Bản đã nhanh chóng giải thích cái gọi là kiểm soát đường cong lợi suất, qua đó tìm cách giữ lợi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm quanh mức 0% bằng cách mua chứng khoán bất cứ khi nào lợi suất vượt quá phạm vi.
Điều đó đã cho phép chính phủ vay ồ ạt để chi trả cho các gói kích thích kinh tế thường xuyên và chi phí chăm sóc người già ngày càng tăng mà không làm tăng lãi suất trái phiếu hoặc lãi suất.
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, tỷ lệ nợ chung của chính phủ Nhật Bản trên tổng sản phẩm quốc nội đã tăng từ khoảng 60% vào năm 1990 lên 263% vào năm 2021, với việc chi tiêu tài khóa hào phóng trong thời kỳ đại dịch đã đẩy nhanh đà tăng trưởng nợ. Các nhà kinh tế của IMF cho biết chi phí lương hưu, chăm sóc sức khỏe và chăm sóc dài hạn đã đóng góp lần lượt 96 điểm phần trăm và 82 điểm vào mức tăng 200 điểm của tỷ lệ nợ trong ba thập kỷ của Nhật Bản.
Nhiều nhà kinh tế kỳ vọng Ngân hàng Trung ương Nhật Bản sẽ tăng lãi suất vừa phải trong quý 2 hoặc quý 3 năm sau. Ảnh: Getty Image
Mức nợ năm 2021 của Nhật Bản là cao nhất trong số các nền kinh tế tiên tiến và so với mức 200% của Hy Lạp, 151% của Ý và 128% của Mỹ, theo IMF. Tuy nhiên, Nhật Bản chỉ trả 1,5% GDP tiền lãi cho khoản nợ của mình vì lãi suất quá thấp. Nếu lãi suất tăng, gánh nặng lãi suất đó sẽ tăng mạnh.
Kinh nghiệm gần đây của Vương quốc Anh đã đặt lại câu hỏi về tính dễ bị tổn thương của Nhật Bản. Nợ của Anh ở mức 104% khi gói chính sách tài chính thất bại của Thủ tướng mới nhậm chức Liz Truss vào tháng 10 làm dấy lên mối lo ngại về sức khỏe tài chính của chính phủ, khiến lợi suất trái phiếu chính phủ tăng vọt và buộc bà phải từ chức.
Một số nhà kinh tế nghi ngờ Nhật Bản đối mặt với rủi ro tương tự vì có quá nhiều khoản nợ của chính phủ Nhật Bản nợ các nhà đầu tư Nhật Bản. Cem Karacadag, người đứng đầu nhóm nợ có chủ quyền của các thị trường mới nổi của Barings, cho biết: “Có những quốc gia trên thế giới không thể duy trì mức nợ 10%, 20%, 30% GDP. Nhưng nếu mọi người sẵn sàng tài trợ cho bạn, mức nợ cao hơn rất nhiều sẽ bền vững”.
Những người khác ít lạc quan hơn. Takeshi Niinami, giám đốc điều hành của Suntory Holdings Ltd., một công ty thực phẩm và đồ uống có các sản phẩm bao gồm bia Suntory và rượu whisky Jim Beam, cho biết: “Chúng tôi không thể tiếp tục in đồng yên Nhật. Đừng quên rằng những gì đã xảy ra ở Anh có thể xảy ra với Nhật Bản”. Ông Niinami nói rằng ông ủng hộ lãi suất cao hơn, khi được thực hiện vào đúng thời điểm, bởi vì nó “tạo ra một nền kinh tế lành mạnh của đất nước này”.
-
Bộ Giao thông mong Nhật Bản hỗ trợ dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam
Làm việc với Bộ Giao thông vận tải, Đại sứ Nhật Bản cũng cho biết phía Nhật Bản rất quan tâm đến Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam, Dự án Đường sắt TP.HCM – Cần Thơ. Lãnh đạo Bộ GTVT mong có cơ hội hợp tác với nước bạn trong các dự án đường sắt của Việt Nam.
-
Standard Chartered: NHNN sẽ tăng lãi suất trong quý II/2025 khi USD mạnh lên và áp lực lạm phát trở lại
Trong báo cáo cập nhật kinh tế mới nhất về Việt Nam, ngân hàng Standard Chartered dự báo đồng USD tăng mạnh lên trong năm 2025 nhưng sẽ suy yếu trong thời gian đầu năm.
-
Tiền nhàn rỗi vào ngân hàng kỷ lục, đạt hơn 14 triệu tỷ đồng
Tiền gửi tại hệ thống ngân hàng tính đến cuối tháng 9 đạt hơn 14 triệu tỷ đồng, tăng 4,9% so đầu năm.
-
Giới chuyên gia dự báo Fed tiếp tục giảm lãi suất trong tháng 12
Ngày 2/12, các quan chức Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed – ngân hàng trung ương) đã nhận định lạc quan về tình hình lạm phát tại nước này, cho rằng Mỹ đang trên đà đạt được mục tiêu lạm phát 2% trong dài hạn, theo đó hé mở triển vọng giảm lãi suất ngay ...