Nếu quá vội vàng thắt chặt chính sách tài khóa, tiền tệ, lãnh đạo các nền kinh tế giàu có nhất thế giới sẽ đẩy kinh tế thế giới vào Đại Khủng hoảng lần 2.

Năm 2008, thế giới tránh được đợt Đại Khủng hoảng lần 2 do tránh được sai lầm từng dẫn đến Đại Khủng hoảng lần 1. Tuy nhiên, châu Âu và Mỹ còn rất nhiều bài học cần phải ghi nhớ.


Trong ngày sinh nhật lần thứ 90 của Milton Freidman, kinh tế gia đạt giải Nobel, vào năm 2002, Ben Bernanke đã nói với Friedman: “Ông nói đúng, chính chúng tôi đã gây ra nó.” Chủ tịch Fed khi đó đang nói đến kết luận của Milton rằng chính người đứng đầu các Ngân hàng Trung ương trên thế giới chịu trách nhiệm cho những gì xảy ra trong thời kỳ Đại Khủng hoảng. Ben Bernanke nói thêm: “Thế nhưng cũng nhờ có ông, chúng tôi sẽ không bao giờ mắc phải sai lầm của lịch sử.” 9 năm sau đó, người đồng cấp của ngài Bernanke đang vui mừng vì đã làm được điều tương tự: “Chúng ta đã ngăn được Đại Suy thoái.”


Cú sốc đối với kinh tế thế giới năm 2008 giống như cái đã gây ra Đại Suy thoái lần 1. 12 tháng sau khi hoạt động kinh tế lên mức đỉnh cao vào năm 2008, hoạt động sản xuất công nghiệp sụt giảm với tốc độ tương đương như năm đầu của Đại Khủng hoảng. Giá cổ phiếu và thương mại toàn cầu sụt giảm mạnh. Dù vậy lần này không có Đại Khủng hoảng nào.


Từ mức đỉnh xuống mức đáy, sản lượng công nghiệp giảm khoảng 13% trong khi đó tỷ lệ này vào thập niên 1930 lên tới 40%. Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ và châu Âu lên mức khoảng 10% trong cuộc khủng hoảng gần đây, nhưng trong thập niên 1930 tỷ lệ thất nghiệp lên tới 25%. Khác biệt này có được nhờ các nhà hoạch định chính sách đã học được rất nhiều sai lầm từ Đại Suy thoái năm 1930.


Nhiều chuyên gia kinh tế vẫn tiếp tục tranh cãi nhau về việc yếu tố nào đã khiến Đại Suy thoái kéo dài và gây ra hậu quả tồi tệ đến như vậy? Một số chuyên gia kinh tế nhấn mạnh đến yếu tố cấu trúc như chi phí lao động. Bà Amity Shlaes, nhà kinh tế sử học, cho rằng chính sự can thiệp của chính phủ đã gây ra Đại Khủng hoảng. Bà nhấn mạnh đến việc cựu Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt đã trừng phạt những người nông dân bởi họ đã bán gà quá rẻ.


Các chuyên gia kinh tế còn chia sẻ quan điểm rằng chính các biện pháp thắt chặt tài khóa và tiền tệ đã khiến tình hình vốn đã xấu lại càng trở nên tồi tệ hơn. Lần này, chính phủ các nước không mắc sai lầm nào như vậy. Thập niên 1930, chính phủ và Ngân hàng Trung ương các nước đua nâng lãi suất, sau thời kỳ chấn động năm 2008, các nhà hoạch định chính sách đồng thuận đưa ra chính sách nới lỏng.


Sau Đại Khủng hoảng 1930, cộng đồng quốc tế trở nên thiếu hợp tác, chiến tranh tiền tệ và cuộc chiến bảo hộ bùng phát; ngược lại đến năm 2008 và 2009 lãnh đạo các nền kinh tế thế giới khá đoàn kết. Thống đốc Ngân hàng Trung ương Anh cũng đã có quan điểm đúng đắn.


Khi xem xét kỹ hơn, bức tranh không mấy ấn tượng như vậy. Trong 2 lĩnh vực quan trọng, chính phủ nhóm nước giàu sẽ có thể vẫn mắc phải 2 sai lầm của thập niên 1930. Thế giới các nước giàu có thể lặp lại chính sách thắt chặt tài khóa đã đẩy nước Mỹ vào suy thoái kinh tế trong Đại Khủng hoảng 1937 – 1938.


Cuộc khủng hoảng tại châu Âu rất giống biến động tài chính tiêu cực cuối thập niên 1920 và đầu 1930, khi đó các nền kinh tế liên tiếp sụp đổ như chuỗi domino do chịu áp lực từ các biện pháp thắt chặt ngân sách, tiền tệ thắt chặt và thiếu ngân hàng đứng ra làm bên cho vay cuối cùng.


Tất cả cùng đi xuống


Những năm 2000, việc kích thích kinh tế dễ dàng hơn nhiều so với thập niên 1930. Chế độ an sinh xã hội, được đưa ra sau thời kỳ Đại Khủng hoảng, đồng nghĩa với việc người thất nghiệp hiện nay vẫn có tiền để chi tiêu, như vậy kinh tế có được thêm một yếu tố đảm bảo ngăn suy thoái mà chính phủ không cần phải can thiệp quá mạnh tay.


Gói chi tiêu công, giảm thuế mà cựu Tổng thống Mỹ Herbert Hoover đưa ra sau khi thị trường chấn động năm 1929 có quy mô chưa đầy 0,5% GDP. Gói kích cầu của Tổng thống Obama trong năm 2009 và 2010 tương đương đến 2-3% GDP.


Cựu Tổng thống Roosevelt nâng chi tiêu lên mức tương đương 10,7% GDP vào năm 1934, ở thời điểm này kinh tế Mỹ đã đang tăng trưởng mạnh. Đến năm 1936, GDP Mỹ sau khi điều chỉnh với lạm phát đã trở lại mức của năm 1929. Việc gói chi tiêu đã giúp kinh tế phục hồi đến đâu hiện vẫn còn đang bị tranh cãi. Chuyên gia kinh tế như John Cochrane thuộc đại học University of Chicago và Robert Barro thuộc đại học Harvard khẳng định nó chẳng mang đến chút tác dụng nào. Họ tuyên bố các chương trình kích thích tài khóa không bao giờ phát huy tác dụng.


Những ai tin rằng các biện pháp tài khóa phát huy tác dụng tuy nhiên thường có xu thế nghĩ rằng vào thập niên 1930, chính sách chi tiêu kém quan trọng hơn chính sách tiền tệ, cái mà họ coi như nguyên nhân chính của mọi vấn đề. Trong một nghiên cứu công bố năm 1989, ông Bernanke và Martin Parkinson, hiện đang là quan chức cao cấp tại Bộ Tài chính Úc khẳng định thay cho việc thực sự giúp kinh tế phục hồi, chương trình chi tiêu “New Deal” có thể coi như dọn đường cho sự phục hồi thực của nền kinh tế. Một số chuyên gia kinh tế khác như Paul Krugman lại muốn nói nhiều hơn đến gói chi tiêu kích cầu.


Cho đến khi nợ công lên mức 40% GDP (cao so với thời điểm lúc bấy giờ) thế nhưng chỉ tương đương một nửa so với Đức hiện nay, Quốc hội Mỹ giảm mạnh chi tiêu, tăng thuế và hạ được thâm hụt tương đương 5,5% GDP trong khoảng thời gian từ năm 1936 đến năm 1938, dù vậy con số này vẫn còn lớn hơn so với mục tiêu của Hy Lạp trong 2 năm sắp tới.


Cùng lúc đó, Fed tăng gấp đôi tỷ lệ dự trữ bắt buộc (từ giữa năm 1937 đến giữa năm 1938), khuyến khích các ngân hàng rút tiền ra khỏi nền kinh tế. Bộ Tài chính Mỹ bắt đầu hạn chế nguồn cung tiền và hoạt động nhập khẩu vàng. Trong năm 1937 và 1938, suy thoái khiến GDP thực giảm 11% và thất nghiệp tăng thêm 4% lên mức cao nhất khoảng từ 13% đến 19% theo cách tính riêng của từng người.


Hiện nay, chính sách tiền tệ chưa đến giai đoạn đảo ngược giống như nước Mỹ thập niên 1930.ECB dự kiến sẽ tiếp tục hạ lãi suất cơ bản đồng euro. Thế nhưng tại nhiều khu vực trên thế giới, chính sách tài khóa đang chuyển biến theo hướng đó. Gói kích thích của Tổng thống Obama đang có thu hẹp dần, chính quyền các bang đang giảm bớt chi tiêu.


Các ứng viên của Đảng Cộng hòa đang có ý định tranh cử Tổng thống năm 2012 liên tục tuyên bố rằng chương trình chi tiêu của chính phủ chẳng mang đến tác dụng gì ngoại trừ khiến gánh nặng nợ nần của thế hệ tương lai tăng cao hơn. Tổng thống Obama đã nói đến giảm chi tiêu. Nếu chương trình giảm thuế và hỗ trợ thất nghiệp khẩn cấp không còn được duy trì, tăng trưởng kinh tế trong năm 2012 sẽ đi xuống.


Câu chuyện không chỉ của riêng nước Mỹ. Dưới thời của David Cameron, chính phủ Anh đang nợ nần cũng đưa ra chương trình thắt chặt tài khóa mạnh tay nhằm ngăn niềm tin vào tín nhiệm tín dụng của nước này sụp đổ. Nó cũng giống như khi cựu Bộ trưởng Tài chính Snowden đưa ra chính sách thắt chặt ngân sách vào năm 1931 bằng biện pháp tăng thuế và giảm chi tiêu. Khi đó, niềm tin không được phục hồi và người Anh buộc phải hạ giá đồng bảng, bỏ chế độ bản vị vàng.


Lần này, chính phủ Anh đã giúp khôi phục được niềm tin của nhà đầu tư và giảm lợi suất trái phiếu chính phủ nhưng lại đối đầu với khả năng suy thoái kinh tế lần 2 do chịu tác động từ nhiều vấn đề tại khu vực đồng tiền chung châu Âu. Vì vậy, khả năng cú sốc xảy đến khi chính phủ áp dụng biện pháp thắt chặt tài khóa cần phải được tính toán kỹ càng.

Theo Ngọc Diệp (CafeF/TTVN)
  • Facebook
  • Chia sẻ
  •   Lưu tin
  •   Báo cáo

    Báo cáo vi phạm
     
 
Mọi ý kiến đóng góp cũng như thắc mắc liên quan đến thị trường bất động sản xin gửi về địa chỉ email: [email protected]; Đường dây nóng: 0942.825.711.
Tags: cafeland