Tại hội thảo cho thấy khá nhiều thông tin bất ngờ về mô hình tiết kiệm nhà ở - một mô hình tương đối phổ biến và thành công trên thế giới nhưng lại quá mới mẻ ở Việt Nam. Từ năm 1775, NH tiết kiệm nhà ở đầu tiên đã ra đời tại Anh. Trong khi đó, tại Đức từ những năm 1920, mô hình tiết kiệm nhà ở cũng đã giúp hàng triệu người dân giải quyết được nhu cầu về nhà ở.
Theo ông Christian Oestreich – đại diện Ngân hàng Bausparkasse Schwôbisch Hall, từ năm 1931, NH tiết kiệm nhà ở đã xuất hiện tại Đức và đến năm 1948 NH này đã cấp vốn cho khoảng 8 triệu nhà ở xây mới, sửa chữa. Riêng trong năm 2012, số lượng hợp đồng tiết kiệm nhà ở của 22 NH có cùng mô hình này tại Đức là khoảng 30 triệu hợp đồng, với tổng giá trị 824,7 tỉ euro.
Với mô hình này, thị trường BĐS đã tăng trưởng rõ rệt, số lượng nhà ở xây mới, sửa chữa cũng tăng khoảng 5% trong năm 2012.
Tính chung 60 năm qua, các NH tiết kiệm nhà ở của Đức đã giải ngân được hơn 1.000 tỉ euro cho các dự án về nhà ở, giúp khoảng 13 triệu gia đình cải thiện được chỗ ở. Hiện tại Đức, cứ hai gia đình thì có một nhà sở hữu hợp đồng về tiết kiệm nhà ở. Một số nước khác như Trung Quốc, Cộng hoà Séc, Hungary, Romania, Slovakia… cũng đã khá thành công với mô hình NH tiết kiệm nhà ở. Nhiều gia đình ngay sau khi sinh con đã lập và ký ngay hợp đồng tiết kiệm nhà ở, để 20 năm sau, khi đứa bé lớn lên là đã có sẵn một căn nhà...
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, mặc dù mô hình này ưu việt như vậy nhưng để trở thành hiện thực tại Việt Nam không đơn giản. Với mức sống và thu nhập thấp của phần lớn người lao động Việt Nam, nỗi lo “cơm áo gạo tiền” cho cuộc sống hiện tại vốn đã khó khăn thì việc lập kế hoạch tài chính cho tương lai là một việc không được nhiều người tính đến.
Bên cạnh đó, nhiều chuyên gia cũng tỏ ra băn khoăn liệu mô hình tiết kiệm nhà ở có khả thi dựa trên tinh thần tự nguyện của người dân. Mặt khác, kinh tế Việt Nam vốn được biết đến là hay biến động, rủi ro cao, không như một số nước phát triển nên việc người dân gửi tiền vào đây sẽ được đảm bảo như thế nào, khi muốn rút giữa chừng hay tai hoạ giữa chừng thì xử lý như thế nào, đó là chưa tính đến thực trạng là lãi suất vay, gửi ở Việt Nam biến động liên tục mà thời gian vừa qua là ví dụ.
Một số chuyên gia nước ngoài thì quan ngại về tính thiếu ổn định của giá cả BĐS và lạm phát tại Việt Nam sẽ ảnh hưởng như thế nào đến người gửi và vay từ NH tiết kiệm nhà ở...
Theo Thứ trưởng Nguyễn Trần Nam, tất cả các vấn đề nảy sinh dự kiến đều đã được tính đến khi quyết định áp dụng mô hình tiết kiệm nhà ở tại Việt Nam.
Riêng về lo ngại về sự trượt giá khi người gửi tiền vào NH nhưng sau đó không mua nổi căn nhà, Thứ trưởng Nam cho rằng, “dù sao có một khoản tiết kiệm vẫn còn hơn là không có khoản nào. Hơn nữa, với mô hình này, nếu một người dân gửi vào NH 300 triệu thì đương nhiên sẽ được vay thêm 300 triệu khác. Cần phải thấy mô hình này nhằm để người dân tránh tâm lý, tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước trong việc phát triển nhà ở”, Thứ trưởng Nam khẳng định.