|
Theo phản ánh từ các ngân hàng thương mại lớn thường xuyên giao dịch trên thị trường OMO và thị trường liên ngân hàng thì từ ngày 22/10 đến nay, nhu cầu vốn và lãi suất tăng khá đột biến. |
Một số
báo cáo cập nhật kinh tế vĩ mô từ một vài công ty chứng khoán nhận định
rằng, đã có dấu hiệu thắt chặt tiền tệ. Theo họ, sở dĩ vậy là bởi chỉ
số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9 và 10/2010 diễn biến phức tạp, cộng với
kỳ hạn giao dịch nghiệp vụ thị trường mở (OMO) đổi từ 2 tuần xuống 1
tuần và lãi suất liên ngân hàng bắt đầu tăng.
Theo phản ánh từ các ngân hàng thương mại lớn thường xuyên giao dịch
trên thị trường OMO và thị trường liên ngân hàng thì từ ngày 22/10 đến
nay, nhu cầu vốn và lãi suất tăng khá đột biến.
Biểu hiện đầu tiên là trước đây, các ngân hàng hoạt động nhiều trên thị
trường 2 vẫn tiếp vốn khá dồi dào đối với các kỳ hạn dài 3 - 6 tháng,
nhưng nay họ hạn chế cung vốn ra. Cùng đó, lãi suất kỳ hạn ngắn bắt đầu
rục rịch tăng thêm khoảng 1%: qua đêm trước đây là 7%/năm thì hiện tại
lên 8%/năm; 1 - 2 tuần từ 9 đến trên 9%; 1 tháng trên 10%/năm...
Một điểm chung dễ nhận thấy, tổng nguồn cung không giảm do các ngân
hàng vẫn cung đều đặn ra thị trường ở các kỳ hạn ngắn, hạn chế kỳ hạn
dài nhưng vì yếu tố cầu lớn hơn nên giá bị đẩy lên cao hơn. Có phải lãi
suất nóng lên và sự thay đổi kỳ hạn giao dịch OMO từ 2 tuần sang 1 tuần
đang phản ánh động thái thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước?
Bà Cao Thị Thúy Nga, Phó tổng giám đốc Ngân hàng Quân Đội (MB), nhận
xét: “Dấu hiệu này cho thấy thanh khoản các ngân hàng bắt đầu nóng lên,
nhưng đó là điều thường thấy theo chu kỳ mùa vụ cuối năm”.
Cán bộ ban vốn của một ngân hàng lớn cũng cho rằng, nhu cầu vốn cuối
năm bao giờ cũng cao hơn các thời điểm khác trong năm, nhất là hiện các
ngân hàng rất cần thêm vốn để bù đắp cho việc trích lập theo các chuẩn
mực an toàn tại Thông tư 13.
Tuy nhiên, quan sát động thái của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường
OMO trong tuần trước và tuần này, thấy rằng, cơ quan này đang điều
hành khá nhịp nhàng trong việc điều chỉnh kỳ hạn và khối lượng tiền
bơm ra thị trường để hạ nhiệt lãi suất. Cụ thể, việc bỏ kỳ hạn 14 ngày
để chuyển thành 7 ngày là đáp ứng đề xuất của nhiều ngân hàng thương
mại trước đó nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản của ngân hàng một cách
linh hoạt nhất, chứ không phải “thắt chặt tiền tệ” như một số nhận
định. Bởi lẽ, khi đồng vốn quay vòng trong 7 ngày thì số vòng quay
nhiều hơn 14 ngày, thanh khoản được giải quyết trong 7 ngày chứ không
phải chờ đến 14 ngày.
Về số lượng, nếu như trong vòng 5 ngày tuần trước (18/10-22/10), Ngân
hàng Nhà nước bơm ra 41 nghìn tỷ đồng (trong đó: 18/10: 6 nghìn tỷ
đồng, 19/10: 7 nghìn tỷ đồng, 20/10: 10 nghìn tỷ đồng, 21/10: 8 nghìn
tỷ đồng, 22/10: 10 nghìn tỷ đồng) thì mới chỉ trong 3 ngày của tuần này
(25-27/10), Ngân hàng Nhà nước đã bơm ra 35 nghìn tỷ đồng. Như vậy, số
lượng Ngân hàng Nhà nước bơm ra có thể nói là đáp ứng nhanh nhu cầu vốn
thanh khoản của các ngân hàng.
Có lẽ, không ở đâu kinh doanh ngân hàng an toàn như ở Việt Nam (!). Mặc
dù cứ rúng lên mối lo về thanh khoản chu kỳ cuối năm, rồi hạn mức bảo
hiểm tối đa chỉ 50 triệu đồng nhưng qua hai năm khó khăn, công chúng
chưa bao giờ thấy một trường hợp đổ vỡ nào. Có thể đó là một thành
công, chí ít là hình thức, nhưng đây là thời điểm khó khăn thanh khoản
theo chu kỳ nên những người trong cuộc chắc hẳn không vì thế mà quá yên
tâm.
Và khó khăn đầu tiên là nguồn vốn bị chia sẻ. Vào cuối năm nhu cầu vốn
để thanh toán của doanh nghiệp và người dân rất cao, cộng với đó là
dòng tiền gửi ngân sách ở hệ thống ngân hàng cũng được rút ra để chi
trả. Hiện tiền gửi Kho bạc tại các ngân hàng thương mại khoảng 57.000
tỷ đồng (Agribank 33.000 tỷ; BIDV 9.400 tỷ, Vietcombank 8.300 tỷ,
VietinBank 1.400 tỷ). Với số lượng lớn như vậy nếu bị rút ra đột ngột
vào cùng thời điểm mùa vụ khó khăn, sự ổn định thanh khoản bị đe dọa là
điều dễ hiểu.
Tiếp nữa, hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay phát triển không đồng
đều nhưng vẫn phải chung một sân chơi. Với những ngân hàng lớn, có điều
kiện đầu tư vào trái phiếu chính phủ thì họ dễ dàng giải quyết khi giao
dịch OMO nhưng với ngân hàng nhỏ thì không. Vì không được hỗ trợ từ
OMO, trong trường hợp gặp khó khăn thanh khoản, buộc họ phải đẩy cao
lãi suất huy động trên cả thị trường 1 và thị trường 2.
Và “cuộc chơi” lãi suất lúc đó không phải trong tay những ông lớn mà lại thuộc về quyền chủ động của các ngân hàng nhỏ.