Thế nào là doanh nghiệp nước ngoài?
Theo
Luật sư Trần Anh Đức (TP Hồ Chí Minh), hiện tại việc tiếp cận các nguồn
vốn vay từ nước ngoài là rất quan trọng, vì các công ty ở ngoài Việt
Nam có thể vay vốn với lãi suất dưới 5%/năm và họ đã tích cực hỗ trợ các
công ty con tại Việt Nam thông qua việc cho vay lại giữa công ty mẹ và
công ty con. Thế nhưng, việc cho vay này lại đang gặp phải một số rào
cản.
Rào cản pháp lý đầu tiên phải
kể đến định nghĩa về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo Luật
Đầu tư, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp Việt Nam
do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần. Với quy định như vậy thì chỉ cần
bán 1 cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam đã bị coi
là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và ngay lập tức bị hạn chế gia
nhập thị trường theo cam kết WTO, bị giới hạn khi tham gia kinh doanh
phân phối sản phẩm. Thực tế: một doanh nghiệp dược phẩm Việt Nam
(Mekophar) đã bị từ chối không được phân phối dược phẩm vì có cổ đông
nước ngoài đã mua 4% cổ phần. Mekophar đã phải tính đến quyết định hủy
niêm yết, loại bỏ cổ đông nước ngoài để có thể kinh doanh phân phối dược
phẩm. Quy định về hạn chế gia nhập thị trường theo cam kết WTO là nhằm
mục đích áp đặt hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài để bảo vệ doanh
nghiệp Việt Nam nhưng đã vô tình gây thiệt hại nặng nề cho chính doanh
nghiệp Việt Nam.
Thực tế, Nghị định
102/2010/NĐ -CP của Chính phủ ngày 1.10.2010 khẳng định: doanh nghiệp có
nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ dưới 49% cổ phần được áp dụng các điều
kiện đầu tư, kinh doanh như đối với nhà đầu tư trong nước tức là doanh
nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, ông Đức cho rằng: dường như quy định tiến bộ
này đã không đi vào thực tế. Nếu Nghị định 102 được áp dụng, Mekophar
đã không phải xin hủy niêm yết và sẽ không cần phải xin Giấy chứng nhận
đầu tư khi nhà đầu tư nước ngoài sở hữu dưới 49% cổ phần.
Trước
tình hình thiếu vốn, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã lựa chọn niêm yết
để dễ dàng tiếp cận các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên, nhà
đầu tư nước ngoài lại không dễ dàng tham gia giao dịch trên thị trường
chứng khoán Việt Nam vì yêu cầu phải xin được cấp Mã số giao dịch chứng
khoán - thực chất là 1 loại giấy phép. Để có giấy phép này, nhà đầu tư
nước ngoài phải chuẩn bị một bộ hồ sơ phức tạp, bao gồm các giấy tờ pháp
lý về việc thành lập đối với nhà đầu tư là tổ chức và lý lịch tư pháp
đối với nhà đầu tư là cá nhân (tài liệu tiếng Anh phải được hợp pháp hóa
lãnh sự và tiếng Việt phải có xác nhận của công chứng Việt Nam) để gửi
lên Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam để xin cấp Mã số giao dịch
chứng khoán. Phải mất thời gian từ 1 - 2 tháng để chuẩn bị hồ sơ và xin
được cấp Mã số giao dịch chứng khoán. Thủ tục này đã làm nản lòng nhiều
nhà đầu tư nước ngoài có ý định tham gia giao dịch trên thị trường chứng
khoán Việt Nam.
Mất cơ hội vì thế chấp
Có
những doanh nghiệp nặng gánh với lãi suất cao đã tính đến giải pháp đi
vay vốn nước ngoài với lãi suất thấp để trả nợ trước hạn khoản vay trong
nước với lãi suất cao. Tuy nhiên, quy chế quản lý vốn vay nước ngoài
yêu cầu mục đích của các khoản vay nước ngoài là để phục vụ dự án đầu tư
đã được phê duyệt. Ngân hàng Nhà nước sẽ không cho đăng ký khoản vay
nước ngoài với mục đích để trả nợ trước hạn cho khoản vay trong nước.
Một số chuyên gia cho rằng, trong trường hợp này, luật pháp Việt Nam đã
tước mất một cơ hội cơ cấu lại khoản nợ cho doanh nghiệp Việt Nam.
Vay
vốn nước ngoài còn gặp khó khăn bởi quy định thế chấp lỗi thời của Luật
Đất đai khi không cho bên cho vay nước ngoài được nhận thế chấp đối với
quyền sử dụng đất và nhà xưởng. Quy định hạn chế thế chấp xuất phát từ
lo ngại: thế chấp bất động sản cho bên cho vay nước ngoài sẽ dẫn đến
việc đất đai bị nước ngoài kiểm soát và Nhà nước sẽ mất quyền quản lý
với đất đai. Đúng là có rủi ro, nhưng đây là rủi ro có thể kiểm soát để
đảm bảo hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước và lợi ích của doanh nghiệp.
Một số ý kiến cho rằng: thế chấp không có nghĩa là bán đất cho nước
ngoài.
Nhà nước hoàn toàn có thể kiểm soát việc thế chấp thông qua: cơ chế đăng ký thế chấp; yêu cầu việc thế chấp phải thông qua một ngân hàng hoạt động tại Việt Nam; khi xử lý tài sản bảo đảm thì phải chuyển nhượng bất động sản cho một pháp nhân hoặc công dân Việt Nam. Thực tế, Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28.8.2001, Chính phủ đã từng ra nghị quyết về việc nghiên cứu các giải quyết yêu cầu của doanh nghiệp nước ngoài đầu tư thực hiện dự án lớn ở Việt Nam. Trong đó, có điều kiện cần thế chấp giá trị quyền sử dụng đất đã được giao hoặc cho thuê dài hạn để vay vốn của các tổ chức tín dụng hoạt động ở nước ngoài trong trường hợp các tổ chức tín dụng ở Việt Nam không có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn. Đến nay, thế chấp bất động sản cho bên cho vay nước ngoài vẫn không được phép.