Đánh giá về Báo cáo rà soát Luật đất đai 2003, TS.
Phạm Sĩ Liêm, Phó Chủ tịch Tổng Hội xây dựng Việt Nam nhất trí dùng
"quyền sở hữu Nhà nước” thay cho "quyền sở hữu toàn dân”. Tuy nhiên,
theo ông Liêm, muốn như vậy thì điều đầu tiên là phải sửa Hiến pháp chứ
không phải chỉ có sửa Luật Đất đai. Ông Liêm cho rằng: "Nói sở hữu Nhà
nước tuy nhiên Nhà nước lại là một phạm trù rất rộng. Tuy Luật không đề
cập, thậm chí cấm nhưng UBND xã cũng thu hồi đất của dân với danh nghĩa
của Nhà nước. Cho nên Nhà nước phải xác định rõ”. Ông Nguyễn Ngọc Tuấn,
Chủ tịch Hội thẩm định giá Việt Nam cũng cho rằng, trong vấn đề sở hữu
đất đai, thực tế cho thấy khái niệm sở hữu toàn dân để dẫn tới sự hiểu
lầm đất đai là vô chủ, vì sở hữu toàn dân là một khái niệm mông lung,
thực chất là không có chủ thể. Trên thực tế, không có một tài sản nào mà
mọi người là chủ, cũng tức là vô chủ. Từ đó không thể có hiệu quả trong
quản lý. Theo ông Tuấn, nên sửa và khẳng định rõ "Nhà nước là chủ sở
hữu đất đai”, người dân chỉ được Nhà nước giao cho quyền sử dụng đất
đai, bất cứ sự vi phạm nào đối với đất đai là vi phạm quyền của Nhà nước
chứ không thể là vi phạm quyền của toàn dân, tức là không của ai cả. Từ
đó, "việc luật hóa các căn cứ để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết
định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất là rất
cần thiết.
Ông Tuấn nhìn nhận rằng, giá đất là vấn đề phức tạp,
nhạy cảm nhất trong cơ chế, chính sách tài chính của Luật đất đai. Thực
tế những năm qua cho thấy giá đất luôn biến động theo xu hướng tăng.
Việc quy định giá đất sát với giá thị trường là rất khó khả thi và cứ
phải rượt đuổi theo giá thị trường. "Chính vì vậy việc giao cho các UBND
địa phương vào tháng 1 hàng năm công bố giá đất là không khả thi vì
thực tế giá cả thị trường của đất thậm chí thay đổi hàng tháng, hàng
tuần. Vì vậy, Nhà nước phải chủ động định giá đất một cách hợp lý để
người dân và tổ chức thực hiện các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước trong
việc sử dụng đất, giá phải được ổn định và công khai minh bạch” - ông
Tuấn bày tỏ.
Theo bà Nguyễn Thị Nga, Trường Đại học Luật Hà Nội,
nếu sửa đổi được vấn đề sở hữu thì hàng loạt vấn đề tiếp sau phải thay
đổi theo. Còn nếu không sửa đổi được thì việc rà soát các văn bản pháp
luật phải tìm ra những bất cập, hạn chế, thiếu sót để từng bước khơi
thông đối với các quyền của người sử dụng đất. Trong khi đó, bà Nguyễn
Thị Thu Ngà, Phó Phòng pháp chế, Công ty Vinaconex-ITC cho rằng, việc tổ
chức cá nhân nước ngoài chỉ được sở hữu căn hộ chung cư mà không được
sở hữu nhà riêng lẻ là quá chặt chẽ và không hợp lý. Bà Ngà phân tích
rằng: "Trên thực tế người nước ngoài ở Việt Nam có nhu cầu mua nhà riêng
lẻ chứ không có nhu cầu mua căn hộ. Đó là xét về nhu cầu thị trường.
Còn đứng trên bình diện gìn giữ kỷ cương luật pháp thì việc sở hữu nhà
riêng lẻ hay căn hộ đều không hề gây ảnh hưởng hay thiệt hại gì, mức độ
an toàn giống hệt nhau. Vì một người khi sở hữu nhà riêng lẻ thì đồng
thời không có quyền sở hữu mảnh đất có ngôi nhà đó, kể cả người nước
ngoài lẫn công dân Việt Nam. Đất đai là sở hữu của Nhà nước, nhà nước có
quyền giải tỏa, mua lại theo giá quy định trong trường hợp cần thiết.
Vậy thì các nhà lập pháp còn điều gì phải quan ngại khi quyết định hạn
chế quyền mua nhà riêng lẻ của người nước ngoài?”.
Theo bà Ngà, Luật ban hành chỉ có tính khả thi khi xuất phát từ nhu cầu thực tế của con người. "Đã có cơ quan nào để ý đến việc thống kê xem có bao nhiêu căn hộ đã được bán cho người nước ngoài trong 3 năm qua, kể từ khi Nghị quyết 19/2008/QH12 ban hành? Trong khi trên thực tế nhu cầu mua nhà của Người nước ngoài ở Việt Nam lại không nhỏ. Vậy tại sao nghịch lý này lại tồn tại? Phải chăng vì các điều luật được làm ra theo kiểu "ban hành để không thể thực hiện?” - bà Ngà đưa ra câu hỏi. Theo bà Ngà, người nước ngoài phần lớn muốn mua nhà riêng lẻ ở Việt nam. Luật pháp nên cho phép họ làm điều này. Có như vậy Luật mới có tính khả thi và mới phù hợp với thực tế, nếu không sẽ chỉ là Luật "chết”.