Khủng hoảng nợ
công tại Mỹ và các nước châu Âu khiến thế giới đối diện nguy cơ lặp lại
khủng hoảng kinh tế, tài chính từng hoành hành 2-3 năm trước. Bối cảnh
thế giới, những tác động trực tiếp tới tình hình nợ công, đầu tư công
trong nước cũng trở thành chủ đề “nóng” tại kỳ họp Quốc hội lần này.
Ngay sau khi nghe báo cáo “toàn cảnh” về tình hình
kinh tế - xã hội của Chính phủ, Quốc hội tiến hành thảo luận và chủ đề
nợ công, đầu tư công, hiến kế giải pháp… Những cảnh báo về nợ công được
đánh giá thẳng thắn, hầu hết ý kiến cho rằng, thực trạng nợ công ở nước
ta vẫn trong ngưỡng an toàn. Tuy nhiên, xu hướng tiềm ẩn nhiều nguy cơ
làm gia tăng nợ công đòi hỏi phải có biện pháp hữu hiệu chặn ảnh hưởng
khủng hoảng nợ công.
Sắp xếp lại hiệu quả, phương thức đầu tư công
Nhìn nhận diễn biến nợ công trên thế giới thời gian
qua, nhiều chuyên gia cho rằng, đây là cuộc khủng hoảng lần thứ hai,
trong khi đó có ý kiến lại khẳng định cuộc khủng hoảng kinh tế, tài
chính năm 2008 vẫn chưa kết thúc, ý kiến thứ ba thì nhắc lại mô hình
phục hồi hình chữ W đã xuất hiện.
Thực tế, chuyện vỡ nợ công xảy ra ngay sau khi kinh tế
thế giới có dấu hiệu phục hồi từ khủng hoảng tài chính, kinh tế 2008.
Hiện, nợ công của Mỹ bằng 90,4% GDP, nợ công mức chung của EU là 80,3%,
trong đó Hy Lạp 123%, Italia 127%, đặc biệt Nhật Bản lên tới mức kỷ lục
197% GDP.
Chính phủ các nước, đặc biệt tại các nước đứng đầu sổ
về nợ công đã áp dụng nhiều gói hỗ trợ, nhưng vẫn chưa sắp xếp các “ngôi
nhà kinh tế” vào trật tự. Hệ quả là đầu tư sụt giảm mạnh, đánh mất niềm
tin từ các giới doanh nhân và cộng đồng tài chính, giảm sút mạnh chi
tiêu và đầu tư, thất nghiệp tăng cao, tăng trưởng kinh tế thụt lùi…
Tại Việt Nam,
tình hình nợ công, đầu tư công cũng bị ảnh hưởng. Trong phát biểu tại
phiên khai mạc kỳ họp Quốc hội hôm thứ năm, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
khẳng định, Chính phủ thực hiện nhất quán chủ trương đổi mới mô hình
tăng trưởng từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều
sâu, từ dựa chủ yếu vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và lao
động chất lượng thấp sang dựa vào hiệu quả, năng suất, chất lượng và sức
cạnh tranh của nền kinh tế trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới về
khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và kỹ năng quản lý
hiện đại. Đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa cơ bản và lâu dài, cần được
tiến hành đồng bộ gắn với các đột phá chiến lược theo một chương trình
tổng thể.
Đổi mới tư duy về đầu tư, từng bước điều chỉnh cơ cấu
đầu tư công theo hướng giảm dần tỷ trọng và nâng cao hiệu quả. Kiên
quyết khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải và tăng cường huy động các
nguồn vốn khác cho phát triển. Năm 2012, phải thực hiện nghiêm kết luận
của Hội nghị Trung ương lần thứ III và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ
về tăng cường quản lý đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước, trái phiếu
chính phủ và kiểm soát chặt chẽ đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Phải
đổi mới cơ chế phân bổ vốn đầu tư, kiên quyết tập trung vốn cho các công
trình dự án cấp thiết, sớm hoàn thành, nhanh đưa vào sử dụng để phát
huy hiệu quả.
Ưu tiên bố trí vốn cho các công trình đã hoàn thành và
đã đưa vào sử dụng, các công trình cần thiết phải hoàn thành trong năm
2012 và vốn đối ứng cho các dự án ODA. Các dự án, công trình khởi công
mới phải được kiểm soát chặt chẽ, xác định rõ nguồn vốn, bảo đảm hiệu
quả và đủ thủ tục đầu tư.
Đối với các dự án đang được đầu tư bằng vốn ngân sách
nhà nước, vốn trái phiếu chính phủ nhưng không có nguồn để bố trí tiếp
thì chuyển sang các hình thức đầu tư khác hoặc phải tạm đình chỉ. Khẩn
trương sửa đổi quy chế phân cấp quản lý đầu tư, trước hết là đầu tư từ
nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ theo hướng bảo đảm quản
lý thống nhất của Trung ương về mục tiêu và danh mục các chương trình,
dự án theo quy hoạch, đồng thời phát huy sự năng động, sáng tạo của địa
phương trong đầu tư phát triển...
Toạ đàm về quản lý nợ công.
Nợ công kiểm soát ngưỡng an toàn
Đáng chú ý, cũng trong tuần qua, 2 diễn đàn đã được tổ
chức về chủ đề nợ công, cắt giảm đầu tư công. Tọa đàm về “Quản lý nợ
công và nợ nước ngoài của quốc gia” do Bộ Tài chính, Ngân hàng Thế giới
và Diễn đàn Liên hợp quốc về thương mại và phát triển tổ chức với sự
tham gia của đại diện các cơ quan chính phủ, các ngân hàng thương mại,
tập đoàn lớn, các tổ chức quốc tế tại Việt Nam, các chuyên gia về quản
lý nợ của các tổ chức quốc tế, một số nước như Brazil, Thụy Sĩ, Thái Lan
và Indonesia.
Tiếp đó, Hội thảo “Triển vọng kinh tế thế giới và chính sách ứng phó của Việt Nam”, do Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia,Viện Khoa học xã hội Việt Nam
và Ngân hàng Thế giới đồng tổ chức với sự tham gia của các chuyên gia
kinh tế – tài chính trong nước và quốc tế. Theo quy định của pháp luật
nước ta, nợ công được hiểu bao gồm ba nhóm là nợ Chính phủ, nợ được
Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Khái niệm này được đánh
giá là hẹp hơn so với thông lệ quốc tế.
Theo công bố mới nhất của Cục Quản lý nợ và Tài chính
đối ngoại - Bộ Tài chính, tỉ lệ nợ công/GDP của Việt Nam là 57,3%, trong
đó 80% là nợ Chính phủ, 19% là nợ Chính phủ bảo lãnh, nợ chính quyền
địa phương chiếm 1%. Các chỉ tiêu về nợ công đều trong ngưỡng an toàn,
phần lớn các khoản vay nước ngoài của Chính phủ có kỳ hạn dài, lãi suất
cố định và ưu đãi, cơ cấu đồng tiền vay đa dạng, hình thức huy động vốn
ngày càng đa dạng và linh hoạt. Mặc dù trong
ngưỡng an toàn song nguy cơ gia tăng nợ công được cảnh báo rất rõ.
Nguyên nhân gây nợ công lớn nhất chính là đầu tư công. Chúng ta nhiều
năm liền dồn vốn cho các hạng mục đầu tư, biến nhiều địa phương thành
“công trường đầu tư công”. Trong khi đó, lĩnh vực
đầu tư công hút vốn khổng lồ cũng được cho là nơi gây thất thoát, lãng
phí lớn, chất lượng nhiều công trình đầu tư công kém.
Trong những năm tới, giải pháp giảm nợ công được các
chuyên gia kiến nghị là cắt giảm mạnh đầu tư công, đầu tư từ khu vực nhà
nước, thay thế đầu tư từ nợ công bằng các nguồn vốn khác. Các
chuyên gia từ chương trình Fulbright và Ngân hàng Thế giới kiến nghị
cần dựa trên các tiêu chí cụ thể về khả năng trả nợ của dự án, khả năng
huy động từ các nguồn vốn khác ngoài đầu tư công để cắt giảm đầu tư công
một cách hữu hiệu và chính xác. Trước tình hình đó, quan điểm của Bộ
Tài chính khẳng định, sẽ tập trung hoàn thiện thể chế chính sách để thực
hiện tốt hơn công tác quản lý nợ theo hướng tiếp cận các thông lệ quốc
tế.
Những nguy cơ gây nợ công xấu ở nước ta phải được hạn
chế. Nhiều ý kiến cho rằng, tỷ lệ nợ công/GDP hoàn toàn có thể tăng lên
trên 70% do mục tiêu tăng trưởng GDP được điều chỉnh thấp hơn trong
những năm tới. Ngay cả nợ tư của các doanh nghiệp nếu không được kiểm
soát chặt chẽ sẽ gây nhiều rủi ro cho nền kinh tế.
Với cơ chế bảo hộ, khi doanh nghiệp nhà nước gặp khó
khăn trong việc trả nợ, nếu Nhà nước đứng ra trả nợ sẽ dồn thêm gánh
nặng nợ công càng lớn. Đồng thời, việc đầu tư công dàn trải, đặc biệt
các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước như thế nào cũng ảnh hưởng đến
nợ công. Các yếu tố lãi suất, tỉ giá, thanh khoản là rủi ro tiềm ẩn đến
sự an toàn của nợ công.
Thông điệp kiểm soát chặt chẽ đầu tư công, giảm nợ
công đã được Thủ tướng khẳng định rõ: “Phải đổi mới cơ chế phân bổ vốn
đầu tư; kiên quyết tập trung vốn cho các công trình dự án cấp thiết, sớm
hoàn thành, nhanh đưa vào sử dụng để phát huy hiệu quả. Ưu tiên bố trí
vốn cho các công trình đã hoàn thành và đã đưa vào sử dụng, các công
trình cần thiết phải hoàn thành trong năm 2012 và vốn đối ứng cho các dự
án ODA.
Các dự án, công trình khởi công mới phải được kiểm
soát chặt chẽ, xác định rõ nguồn vốn, bảo đảm hiệu quả và đủ thủ tục đầu
tư. Đối với các dự án đang được đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước, vốn
trái phiếu chính phủ nhưng không có nguồn để bố trí tiếp thì chuyển
sang các hình thức đầu tư khác hoặc phải tạm đình chỉ”. Mục tiêu, đến
năm 2015, nợ công khoảng 60 - 65% GDP.
Nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp, hiện vẫn còn một số cách hiểu Theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới, nợ công
được hiểu là nghĩa vụ nợ của bốn nhóm chủ thể bao gồm: nợ của Chính phủ
trung ương và các Bộ, ban, ngành trung ương; nợ của các cấp chính quyền
địa phương; nợ của Ngân hàng Trung ương; và nợ của các tổ chức độc lập
mà Chính phủ sở hữu trên 50% vốn, hoặc việc quyết lập ngân sách phải
được sự phê duyệt của Chính phủ hoặc Chính phủ là người chịu trách nhiệm
trả nợ trong trường hợp tổ chức đó vỡ nợ. Quan niệm về nợ công như vậy cũng tương tự như của Hệ
thống quản lý nợ và phân tích tài chính của Hội nghị của Liên hợp quốc
về thương mại và phát triển (UNCTAD)