Hợp
nhất để thành một ngân hàng hoạt động vững mạnh, minh bạch, đó mới là
cái đích tái cơ cấu mà ngân hàng Nhà nước mong muốn. Ảnh minh hoạ. Ảnh: Lê Quang Nhật |
Bản chất của vấn đề thanh khoản là… nợ xấu
Trước tiên, cần làm rõ bản chất của vấn đề thanh khoản mà các ngân hàng
thương mại, đặc biệt là ngân hàng thương mại nhỏ, hiện đang gặp phải.
Thực tế thời gian qua cho thấy nguyên nhân chủ yếu của nó không phải là
sự chênh lệch tạm thời giữa kỳ hạn cho vay và kỳ hạn huy động trong hoạt
động kinh doanh, mà thực chất là do nợ xấu không thu hồi được của các
ngân hàng này. Do vậy, chúng ta cần gọi đúng tên của vấn đề đó là nợ xấu
chứ không phải là thanh khoản. Các khoản nợ xấu này chủ yếu nằm ở lĩnh
vực bất động sản và các lĩnh vực sản xuất có liên quan do sức cầu ở các
thị trường này suy giảm mạnh trong hơn một năm qua. Theo tính toán của
ngân hàng Nhà nước (NHNN) thì chỉ riêng tổng dư nợ bất động sản là xấp
xỉ 200.000 tỉ đồng vào cuối năm 2011. Các khoản nợ này, nếu không thanh
toán được, sẽ ngày càng phình to với tốc độ tăng bằng với mức lãi suất
trên dưới 20%/năm.
Với các khoản cho vay thuộc lĩnh vực bất động sản, sản xuất vật liệu
xây dựng và cả chứng khoán thì các ngân hàng thương mại hầu như chưa thu
hồi được do các thị trường này sụt giảm mạnh cả về giá lẫn giao dịch.
Mỗi khi các khoản huy động đáo hạn, các ngân hàng thương mại lại lâm vào
tình trạng “đói” thanh khoản và sẵn sàng lao vào cuộc chạy đua lãi suất
gây xáo trộn trên thị trường tiền tệ. Do vậy, vấn đề thanh khoản sẽ
không thể được giải quyết triệt để bằng cách tạm thời bơm tiền qua thị
trường mở hay qua cửa sổ tái cấp vốn/tái chiết khấu của NHNN. Hơn nữa,
trong điều kiện lạm phát những tháng đầu năm còn cao, dư âm lạm phát của
những năm trước chưa mờ nhạt, nếu bơm tiền lâu dài cứu thanh khoản có
thể khiến nền kinh tế quay trở lại vòng xoáy lạm phát một lần nữa.
Giải pháp triệt để đối với vấn đề thanh khoản hiện nay phải là những
biện pháp xử lý nợ xấu đi kèm với quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng thương mại và thay đổi một số công cụ chính sách.
Giải pháp đơn giản thứ nhất là gỡ bỏ trần lãi suất huy động. Việc làm
này sẽ giúp các ngân hàng thương mại có thể huy động được các khoản tiền
gửi mới từ công chúng, chứ không chỉ là các khoản tiền gửi chạy từ ngân
hàng này sang ngân hàng khác. Thực tế thời gian qua đã cho thấy không
thể ép các ngân hàng thương mại tuân thủ trần lãi suất trong điều kiện
họ thiếu thanh khoản. Với xu hướng giảm dần của lạm phát (so với cùng
kỳ) và các ngân hàng thương mại đang tự nguyện cắt giảm lãi suất huy
động như hiện nay, việc gỡ bỏ quy định trần này sẽ không gây xáo trộn gì
nhiều trên thị trường tiền tệ.
Thứ hai, cùng với việc gỡ bỏ trần lãi suất thì việc phát triển và thực
hiện các hợp đồng tín dụng với lãi suất điều chỉnh theo lạm phát nhằm
đảm bảo lãi suất thực dương sẽ giúp làm tăng các hợp đồng tín dụng dài
hạn, và từ đó giảm bớt căng thẳng thanh khoản. Tuy nhiên, vì sự thiếu
hụt thanh khoản hiện nay là do nợ xấu và xảy ra trên toàn hệ thống, nên
chỉ riêng những biện pháp này là không đủ. Giải pháp mấu chốt ở đây phải
là đẩy nhanh quá trình thu hồi, cơ cấu lại, bán các khoản nợ quá hạn và
giải chấp các tài sản đảm bảo cho các tổ chức tài chính có tiềm lực,
đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài nhằm huy động nguồn lực. Quá trình
này có thể mất nhiều thời gian và trong quá trình thực hiện nhiều ngân
hàng yếu có thể mất khả năng thanh toán. Để tránh sự đổ vỡ và tháo chạy
dây chuyền thì quá trình mua/bán sáp nhập giữa các ngân hàng cần phải
được thực hiện nhanh với sự giám sát, và nếu cần thiết là cả sự bảo trợ,
của NHNN.
Nếu không bỏ trần lãi suất huy động…
Trong năm nay, thanh khoản vẫn là vấn đề nan giải đối với toàn hệ thống
ngân hàng thương mại, do viễn cảnh của thị trường tài chính và môi
trường kinh doanh vẫn chứa đựng nhiều bất trắc cùng những thông số không
dự báo được. Nợ xấu trong hệ thống, gốc rễ của vấn đề thanh khoản,
không dễ dàng giải quyết tính theo đơn vị quý, chừng nào các thị trường
tài sản chưa tan băng để hỗ trợ việc giải chấp, khiến tốc độ lưu thông
vốn trong nền kinh tế sẽ thấp hơn mức bình thường. Trong khi đó, nguồn
cung thanh khoản trực tiếp từ ngân hàng Nhà nước chỉ mang tính sự vụ,
không thể giải quyết dứt điểm vấn đề này. Ngay cả khi ngân hàng Nhà nước
có ý định cung ứng một lượng lớn thanh khoản ở kỳ hạn dài, thì bất ổn
vĩ mô sẽ nhanh chóng trở lại do lạm phát sẽ bùng lên như cái giá cho nỗ
lực cải thiện thanh khoản tạm thời. Điều này sẽ xoá tan mọi nỗ lực bình
ổn vĩ mô trong hơn một năm qua, và cùng với nó là những tiền đề cho cải
cách.
Cũng vì vậy, diễn biến của lãi suất có thể sẽ không đơn giản là giảm
theo kỳ vọng lạm phát, vì theo kinh nghiệm các nước đang phát triển sau
khủng hoảng (như Mỹ Latinh), lãi suất thực bị kìm giữ ở mức cao sau
nhiều năm do sức ép của những rủi ro trong nền kinh tế vẫn hiện hữu. Cụ
thể, xét từ góc độ của hệ thống ngân hàng thương mại, chi phí cho các
khoản nợ xấu và nhu cầu dự trữ thanh khoản sẽ đẩy khoảng cách giữa lãi
suất huy động và lãi suất cho vay ra lên cao. Do đó, trong bối cảnh này,
việc kìm nén lãi suất tiền gửi (như chính sách trần lãi suất tiền gửi)
có thể không phát huy được tác dụng làm giảm lãi suất cho vay ra. Nếu
lãi suất huy động bị đè nén hơn nữa, dưới sự hỗ trợ của lạm phát thấp,
thì các ngân hàng sẽ lợi dụng cơ hội này để có thêm nguồn lực bù đắp cho
những rủi ro trong hoạt động ngân hàng, thay vì đặt ưu tiên hạ lãi suất
cho vay lên hàng đầu. Theo nghĩa đó, người gửi tiền bị cưỡng bức chia
sẻ chi phí tái cấu trúc các khoản nợ cùng với ngân hàng.
Giới hạn của việc “giải cứu”
Trong chuyện giải quyết thiếu hụt thanh khoản ở từng ngân hàng thương
mại, ngân hàng nhà nước (NHNN) nếu dừng lại ở mức hỗ trợ thì là việc
bình thường. Vì đây là nơi mà từng ngân hàng thương mại có thể vay nhằm
giải quyết thiếu hụt thanh khoản của mình, đồng thời với việc họ sử dụng
nhiều cách thức khác trong quản lý tài sản cũng như quản lý nợ để giải
quyết vấn đề thanh khoản. Tuy nhiên, thiếu hụt thanh khoản có thể trở
thành khủng hoảng vì mang tính dây chuyền và các ngân hàng tốt vẫn có
thể bị “liên luỵ” từ đó ảnh hưởng cả thị trường. Đó là lý do để NHNN
không phải chỉ hỗ trợ mà là “giải cứu”. Tình trạng này xảy ra có thể có
lý do khách quan, bất khả kháng ví dụ như một sự cố tiêu cực lớn ở một
ngân hàng nào đó dẫn đến ảnh hưởng đến cả hệ thống (rút tiền ồ ạt), hoặc
khủng hoảng tài chính xuất phát từ khủng hoảng của một vài ngành công
nghiệp nào đó mà ngân hàng đầu tư, cho vay nhiều (ví dụ như ngành bất
động sản, dầu khí…)
Nếu loại trừ các yếu tố khách quan, khủng hoảng thanh khoản có thể xuất
phát từ việc quản lý thanh khoản yếu kém của các ngân hàng thương mại:
dùng vốn ngắn hạn cho vay dài hạn và nghiêm trọng hơn là cho vay cẩu thả
làm gia tăng rủi ro tín dụng. Tổn thất tín dụng, nợ xấu sẽ làm ngân
hàng mất khả năng thanh khoản, mất vốn. Khủng hoảng thanh khoản hiện nay
mang yếu tố chủ quan.
Chưa bàn đến các chính sách tiền tệ, ví dụ lãi suất có hạn chế hiệu quả
quản lý thanh khoản của ngân hàng thương mại hay không, câu hỏi vẫn có
thể đặt ra ở góc độ các ngân hàng này. Đó là chiến lược và khả năng quản
trị thanh khoản ở các ngân hàng thương mại trong điều kiện hiện nay?
Bởi vì nếu bản thân các ngân hàng không nâng cao năng lực quản trị trong
đó có quản trị thanh khoản thì cái gốc của vấn đề có thể khó giải quyết
được. Hơn nữa, việc “giải cứu” của NHNN nếu không đi kèm với một yêu
cầu nào đối với ngân hàng thương mại hoặc quan trọng hơn là nếu không đi
kèm với việc tăng cường giám sát các chỉ tiêu quản lý thanh khoản ở các
ngân hàng thương mại, thì việc giải cứu sẽ khó mang lại hiệu quả; chưa
kể việc giải cứu này còn có thể làm phát sinh tâm lý ỷ lại, hay rủi ro
đạo đức trong hệ thống ngân hàng thương mại, khiến các ngân hàng thương
mại cho vay bất chấp rủi ro. Vấn đề này sẽ càng nghiêm trọng nếu mầm
mống của khủng hoảng thanh khoản không phải từ các ngân hàng thương mại
nhỏ mà từ các ngân hàng lớn vì tâm lý luôn chắc chắn có NHNN bảo trợ
phía sau.