Ngân hàng Nhà nước với tư cách là ngân hàng trung ương của Việt Nam nên được trao quyền nhiều hơn, mạnh hơn để có thể phản ứng, xử lý nhanh nhạy, hiệu quả trước các sự cố ngân hàng nhằm giảm thiểu các thiệt hại và ngăn chặn nguy cơ mất an toàn của hệ thống.

Đề xuất trên được đại biểu Hà Sỹ Đồng (đoàn Quảng Trị) nêu trong phiên họp góp ý dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi tại hội trường Quốc hội chiều 15/1.

Những sự cố nghiêm trọng kiểu như sự kiện Ngân hàng SCB lẽ ra rất khó xảy ra

Đại biểu Hà Sỹ Đồng cho rằng, tổ chức tín dụng bản chất là những định chế trung gian tài chính, thực hiện kinh doanh dựa trên niềm tin của khách hàng.

Theo ông Đồng, gần như chỉ loại hình ngân hàng thương mại mới có khả năng gây nên các vấn đề “hoảng loạn hay tháo chạy ngân hàng”, đe dọa tạo rủi ro lan truyền làm “mất an toàn hệ thống”.

Những vấn đề như vậy chủ yếu nảy sinh từ những nguyên nhân khách quan như điều kiện kinh doanh tiền tệ bất ngờ thay đổi, xuất hiện các cú sốc tiêu cực, môi trường vĩ mô bất ổn, hay niềm tin bị lung lay.

Đại biểu Hà Sỹ Đồng (đoàn Quảng Trị). Ảnh: Quốc hội

Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan phổ biến là sự cố tình vi phạm của giới sở hữu, quản lý, điều hành ngân hàng về các quy định, các tỉ lệ an toàn hoạt động đến mức gây hậu quả đáng kể,…

Từ đó mới bắt buộc dẫn tới các đòi hỏi “can thiệp sớm” và “kiểm soát đặc biệt”, “biện pháp hạn chế”, “biện pháp hỗ trợ”, “xử lý trường hợp ngân hàng bị rút tiền hàng loạt”, “vay, cho vay đặc biệt”, … được đề cập tại các điều từ 156 tới 194 trong Dự thảo luật.

“Tất nhiên, logic này đúng với điều kiện các cơ chế hay chương trình như: 3 lớp phòng thủ, giám sát từ xa – thanh tra tại chỗ, bảo hiểm tiền gửi công khai và bảo hiểm tiền gửi ngầm định, giám sát cẩn trọng vĩ mô và giám sát an toàn vi mô, … được triển khai nghiêm túc, thực chất, phát huy hiệu lực, hiệu quả”, ông Đồng phân tích.

Đại biểu cho rằng, nếu làm được như vậy thì những sự cố nghiêm trọng kiểu như sự kiện Ngân hàng SCB mới đây, lẽ ra rất khó xảy ra và khi xảy ra, hệ lụy đáng ra không tiêu cực đến vậy, tổn thất không lớn đến vậy.

Theo ông Đồng, vấn đề hoảng loạn hay “tháo chạy” khỏi ngân hàng và đe dọa rủi ro lan truyền làm mất an toàn hệ thống thường xảy ra ở các ngân hàng thương mại.

Khi có những sự cố như vậy xảy ra, thông lệ quốc tế tốt cũng như những bài học kinh nghiệm đắt giá của Việt Nam đều chỉ ra rằng, Ngân hàng Nhà nước với tư cách là ngân hàng trung ương của Việt Nam nên được trao quyền nhiều hơn, mạnh hơn để có thể phản ứng, xử lý nhanh nhạy, hiệu quả trước các sự cố ngân hàng nhằm giảm thiểu các thiệt hại và ngăn chặn nguy cơ mất an toàn của hệ thống.

Khống chế tỷ lệ sở hữu tại ngân hàng không đủ ngăn tái diễn vụ việc như SCB

Góp ý vào dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), đại biểu Đoàn Thị Lê An (đoàn Cao Bằng) nhấn mạnh sự cần thiết phải sửa Luật này để phù hợp với thực tế.

Về tỷ lệ sở hữu cổ phần (Điều 63) giảm xuống, việc khống chế tỷ lệ sở hữu cổ phần có thể ảnh hưởng tới các ngân hàng. Do đó, đại biểu Đào Thị Lê An cần xem xét các thủ tục, làm rõ cơ cấu sở hữu cổ phần, đặc biệt là những trường hợp cố ý làm trái quy định…

Cụ thể là tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông là tổ chức và người có liên quan của cổ đông đó không vượt quá 15% và 20% giảm xuống còn 10% và 15%. Mục đích của việc giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần này nhằm hướng tới việc loại bỏ tình trạng sở hữu chéo, sử dụng tỷ lệ sở hữu cổ phần để thao túng, chi phối hoạt động của các tổ chức tín dụng từ một số cổ đông, nhóm cổ đông lớn.

Đại biểu Đoàn Thị Lê An (đoàn Cao Bằng). Ảnh: Quốc hội

Bà An cho rằng, vấn đề điều chỉnh tỷ lệ sở hữu này không có nhiều ý nghĩa để hạn chế sở hữu chéo. Điều này chỉ kiểm soát được về mặt hồ sơ.

“Việc khống chế tỷ lệ không quan trọng bằng việc giám sát thực thi quy định, chưa nói đến việc có thể tạo ra rào cản ngăn cản dòng vốn ngoại chảy vào hệ thống ngân hàng nội khi những người chủ ngân hàng nắm giữ 15 – 20% vốn ngân hàng không thể lũng đoạn các hoạt động cho vay của chính tổ chức đó”, đại biểu An nêu vấn đề.

Trên thực tế, những trường hợp sai phạm vừa qua cho thấy tỷ lệ sở hữu thực sự của những chủ thể này cao hơn rất nhiều so với quy định thông qua các công ty con, công ty liên kết hoặc các cá nhân đứng tên.

Theo bà An, việc sửa đổi pháp luật để phù hợp thực tiễn rất cần thiết. Tuy nhiên, khống chế tỷ lệ sở hữu tại ngân hàng không đủ ngăn tái diễn vụ việc tương tự như Ngân hàng SCB bởi sở hữu chéo hay thao túng ngân hàng bản chất rất phức tạp. Nếu nhìn trên giấy tờ, nhiều cổ đông sở hữu thấp hơn tỷ lệ cho phép nhưng vẫn nắm quyền chi phối.

Do đó, bên cạnh việc siết tỷ lệ sở hữu với hiệu quả còn khá mơ hồ. Cần xem xét quy định thật chặt chẽ về điều kiện, thủ tục cấp tín dụng cho khách hàng liên quan. Cổ đông có hệ thống giám sát chéo, thiết lập một khung pháp lý cụ thể trong lĩnh vực tài chính để làm rõ cơ cấu sở hữu, chủ sở hữu thực và trách nhiệm giải trình, xử lý nghiêm minh với những trường hợp cố ý làm trái.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho rằng, để ngăn chặn sở hữu chéo, một biện pháp là không đủ, mà cần nhiều giải pháp đồng bộ. Ví dụ quy định mở rộng người có liên quan có xử lý được hết tình trạng sở hữu chéo, chi phối hay thao túng tổ chức tín dụng hay không?

“Như trường hợp SCB vừa qua, sở hữu cá nhân chỉ 5% nhưng nhờ người này, mượn danh người kia đứng tên. Vì vậy quy định trong luật không đủ, mà cả công tác tổ chức, triển khai thực hiện và phải giám sát tổ chức như đại biểu nói”, ông Thanh nêu vấn đề.

Diệu Trang
  • Facebook
  • Chia sẻ
  •   Lưu tin
  •   Báo cáo

    Báo cáo vi phạm
     
 
Mọi ý kiến đóng góp cũng như thắc mắc liên quan đến thị trường bất động sản xin gửi về địa chỉ email: [email protected]; Đường dây nóng: 0942.825.711.