Từ năm 2011, hình thức đầu tư chéo của các TCTD đã chấm dứt, chỉ còn tồn tại một số trường hợp do cơ chế cũ
Đầu tư chéo: không thể cấm
Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì việc các cổ đông là cá nhân hay tổ chức kết hợp với nhau để cùng thông qua hay bác bỏ một nghị quyết của ĐHCĐ hay của hội đồng quản trị doanh nghiệp là rất phổ biến.
“Đây là hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế thị trường và do đó, về nguyên tắc, quy định của các cơ quan quản lý không thể ngăn chặn các cá nhân, tổ chức kết hợp với nhau nhằm có ảnh hưởng chi phối một tổ chức”, TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia ngân hàng nhận định.
Liên quan đến vấn đề đầu tư chéo hay sở hữu chéo giữa các tổ chức tín dụng (TCTD) như dư luận đề cập gần đây, theo Luật Các TCTD Việt Nam, một TCTD không được đầu tư quá 11% vốn cổ phần của một tổ chức khác. Do đó, trước năm 2011, có trường hợp TCTD A đầu tư vào TCTD B và ngược lại. Với cách đầu tư chéo như vậy, liệu các TCTD có gây ra thiệt hại gì cho các cổ đông hay sự an toàn của hệ thống? Câu trả lời là, theo bất kỳ chuẩn mực nào, việc TCTD A sở hữu dưới 11% vốn của TCTD B không được coi là “kiểm soát” hay có “ảnh hưởng trọng yếu” đến hoạt động kinh doanh của TCTD B, vì việc “kiểm soát” chỉ phát sinh khi TCTD A phải nắm quyền sở hữu TCTD B từ 51% trở lên; và được coi là “có ảnh hưởng trọng yếu” khi TCTD A sở hữu từ 20% vốn của TCTD B trở lên. Do đó, mức đầu tư 11% thực ra chỉ là khoản đầu tư thương mại bình thường.
Bên cạnh đó, theo quy định về các tỷ lệ an toàn của TCTD, khoản đầu tư của TCTD này vào TCTD khác phải được loại trừ khỏi vốn cấp 1 khi tính hệ số an toàn vốn (CAR). Do đó, khi một TCTD đầu tư vào một TCTD khác, trên thực tế đều phải cân nhắc rất kỹ, nên việc đầu tư chéo là có thể kiểm soát được. Ngoài ra, từ năm 2011, trong Luật Các TCTD mới, khoản 5, Điều 129 quy định rõ, TCTD không được góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp, TCTD khác là cổ đông, thành viên góp vốn của chính TCTD đó. Do đó, có thể nói, kể từ năm 2011, hình thức đầu tư chéo mới của các TCTD trong hệ thống TCTD Việt Nam đã chấm dứt, chỉ còn tồn tại một số ít trường hợp do cơ chế cũ để lại và theo thời gian, tỷ lệ này sẽ ngày càng giảm do bị pha loãng khi TCTD tăng vốn.
Mặt khác, theo quy định hiện hành của NHNN, một cổ đông cá nhân không được sở hữu quá 5%, cổ đông là tổ chức không được sở hữu quá 15% vốn điều lệ của một TCTD. So với quy định tại một số quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, tỷ lệ áp dụng cho cá nhân là 9,99% và cho tổ chức là 24,99% thì quy định về tỷ lệ sở hữu TCTD tại Việt Nam chặt chẽ hơn nhiều.
“Quy định của Việt Nam thể hiện ý chí của Nhà nước trong việc tạo ra một sân chơi bình đẳng để tránh những trường hợp cá nhân hay tổ chức chi phối một TCTD, ngoại trừ ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Tỷ lệ 5% hay 15% nói trên có thể cũng sẽ thay đổi theo sự vận động và thực tiễn của nền kinh tế phát triển qua từng giai đoạn”, chuyên gia cao cấp phân tích ngân hàng của một công ty kiểm toán nói. Chuyên gia này cũng cho rằng, trong nền kinh tế thị trường, về nguyên tắc, không thể ngăn các cá nhân hay tổ chức kết hợp với nhau để tăng ảnh hưởng đối với một tổ chức kinh tế. Như vậy, đầu tư chéo là hoạt động được pháp luật cho phép, chỉ bị khống chế về tỷ lệ. Vấn đề là tỷ lệ đầu tư chéo trên thực tế có thể lớn hơn các mức quy định, được lách và che giấu dưới nhiều hình thức khác nhau, như mượn danh sở hữu…
Cũng cần lưu ý thêm là, việc một cá nhân hay tổ chức vay tiền của một TCTD này để đầu tư vào một TCTD khác là bình thường, khi nó đáp ứng được các yêu cầu về an toàn tín dụng. Hoạt động này dễ bị hiểu lầm thành đầu tư chéo, nhưng không phải.
Khái niệm đầu tư chéo cũng thường được dùng để chỉ hiện tượng một cá nhân hay tổ chức cùng lúc sở hữu cổ phần trọng yếu và nắm quyền quản trị điều hành tại nhiều đơn vị kinh doanh khác nhau. Trong lĩnh vực ngân hàng, hiện tượng này dẫn đến xu hướng thao túng hoạt động của ngân hàng, bóp méo các tín hiệu thị trường như lãi suất, tỷ giá… Thực tế, đây mới là vấn đề đáng lo ngại, có thể ảnh hưởng đến hoạt động của lĩnh vực ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Lạm dụng đầu tư chéo: có thể kiểm soát
Để xử lý vấn đề này, phải xác định mục tiêu quản lý là gì? Đầu tiên và cũng quan trọng nhất đó là phải bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư nhỏ, họ phải được đối xử công bằng; Hai là phải đảm bảo hoạt động của TCTD minh bạch. Để đạt được mục tiêu trên, trong thực tế, có rất nhiều quy định chi phối các hành vi của TCTD.
Các quy định liên quan đến quản trị doanh nghiệp: Yêu cầu ban kiểm soát (BKS) phải thực sự độc lập với HĐQT và có quyền phủ quyết các quyết định có ảnh hưởng tiêu cực hoặc rủi ro cao đối với quyền lợi của các nhà đầu tư nhỏ lẻ; phải can thiệp, ngăn chặn, phát hiện, báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước trong trường hợp HĐQT có những quyết định sai lầm. Bên cạnh đó, vai trò của thành viên độc lập trong HĐQT phải thực sự độc lập, có tiếng nói, ngăn chặn, thể hiện quan điểm của mình trong trường hợp những quyết định của HĐQT gây bất lợi cho các cổ đông nhỏ lẻ, khiến các cổ đông nhỏ lẻ không được đối xử công bằng.
Các quy định về kế toán, hệ thống các quy định an toàn: Yêu cầu liên tục nâng cao tính minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế, bao gồm cả việc cho vay các bên liên quan. Đặc biệt, các quy định về phòng chống rửa tiền cũng phải được thực thi một cách nghiêm túc. Ví dụ, các cổ đông đi vay tiền hoặc các nguồn tiền để góp vốn thành lập ngân hàng không minh bạch thì phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh.
Tính thực thi của các quy định pháp luật: Hệ thống quy định ở Việt Nam khá bao quát và đầy đủ, nhưng tính thực thi và việc giám sát thực thi không nghiêm. Việc xử lý cá nhân, tổ chức sai phạm được thực hiện một cách khá tùy tiện, có lúc quá chặt, có lúc quá lỏng, dẫn đến sự kém minh bạch trong việc thực thi các quy định đã có.
Vai trò của thanh tra, giám sát ngân hàng dựa trên đánh giá rủi ro: Khi cơ quan thanh tra thấy TCTD thực hiện các giao dịch có tính rủi ro cao phải đặt câu hỏi là vấn đề đó có gây rủi ro cho TCTD, cho hệ thống không và TCTD phải có trách nhiệm giải trình. Nếu không giải thích được, TCTD phải dừng lại để giải quyết và không được tiếp tục thực hiện giao dịch đó cho đến khi giải tỏa hoàn toàn các quan ngại của cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng.
“Thông lệ ở Việt Nam yêu cầu các TCTD tuân thủ các quy định đã ban hành, tuy nhiên, trong thực tế, có những vấn đề quy định pháp luật chưa điều chỉnh, chưa có hoặc đã có, nhưng trong quá trình thực thi lại gây ra sự không an toàn cho TCTD. Do đó, việc thanh tra, giám sát dựa trên đánh giá rủi ro là một thay đổi quan trọng mà hệ thống ngân hàng cần thực hiện đồng bộ nhằm đảm bảo cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng kịp thời ngăn chặn các giao dịch có thể gây rủi ro lớn cho TCTD và ảnh hưởng đến sự an toàn chung của hệ thống”, chuyên gia cao cấp phân tích ngân hàng nói.