>>Luật Đất đai 2003 - Kỳ 1: Quá nhiều khiếm khuyết
20, 50 năm hay vô thời hạn?
Cho đến nay, hơn 10 triệu hộ nông dân
được giao đất với thời hạn 20 năm (2003-2013) đang cùng chung tâm trạng
lo ngại do thời hạn bị thu hồi đất đã cận kề.
Từ vụ việc Tiên Lãng, Hải Phòng, cũng có
người cho rằng viễn cảnh thu hồi hàng loạt có thể khó xảy ra, nhưng đã
đến lúc quy định này cần được xem xét lại bởi không thể cứ 20 năm nước
ta lại thực hiện “cải cách” một lần, cũng không thể tự động gia hạn mà
không soát xét hoặc không cấp lại giấy chứng nhận bởi sẽ sai về mặt pháp
lý.
Chúng ta có nhiều cơ chế để hạn chế địa chủ mới như đánh thuế cao hoặc sung công. Hiện nay dân số nông thôn nước ta chiếm 70% tổng dân số, khi trở thành nước công nghiệp, dân số nông thôn còn 20%. Chúng ta không thể bắt con nông dân cứ mãi là nông dân mà sẽ làm công việc công nghiệp dịch vụ tại đô thị, thu nhập cao hơn, chuyên nghiệp hơn. Còn những người nông dân muốn gắn bó với đất, hãy để họ có cơ hội phát triển. GS. Đặng Hùng Võ |
Theo TS. Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện
Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách phát triển Nông nghiệp - Nông thôn
(IPSARD), thực tiễn cho thấy thời hạn 20 năm đã khiến nhiều nông dân bức
xúc bởi họ cảm thấy bất an, không dám đầu tư, bỏ tiền cải tạo đồng
ruộng, xây dựng cơ sở hạ tầng, làm đường, làm thủy lợi...
Vì một suất đầu tư rất tốn kém, chỉ khi
nào chắc chắn, an tâm về quyền sử dụng đất lâu dài người dân mới làm.
Bên cạnh đó, quy mô sử dụng hạn điền đang cản trở nhiều người muốn tập
trung đất đai để sản xuất, làm ăn lớn.
Điều này có thể thấy rõ ở những khu vực giàu tiềm năng như ĐBSCL, Tây nguyên, Đông Nam bộ... những nơi kinh tế trang trại có khả năng phát triển.
Nhiều chuyên gia về đất đai từng cho
rằng Nhà nước hoàn toàn có thể thay từ “sở hữu toàn dân” sang đa sở hữu,
kéo dài thời gian giao đất lên 50 năm hoặc xóa bỏ thời hạn giao đất cho
nông dân.
Theo GS. Đặng Hùng Võ, theo thời hạn
phát sinh từ Luật Đất đai 1993, hết thời hạn giao đất, nếu nông dân có
nhu cầu và sử dụng đất đúng pháp luật sẽ được cho thuê tiếp. Điều này
đúng về mặt lý thuyết nhưng trên thực tế lại không có ý nghĩa.
Bởi theo cơ chế hiện hành, người xác
nhận hiệu quả sử dụng đất để người có đất được tiếp tục sử dụng hay
không là chính quyền địa phương. Cơ chế này tiềm ẩn nguy cơ xung đột lợi
ích. Trong nhiều trường hợp, người dân buộc phải cầu cạnh chính quyền
để giữ đất, cơ hội cho nguy cơ tham nhũng rất cao.
Cũng theo GS. Võ, câu chuyện không phải
50 hay 60 năm mà là sau thời hạn này chúng ta sẽ làm gì. Xóa thời hạn sẽ
đem lại nhiều tích cực: người có đất yên tâm, có động lực tăng năng
suất và sản lượng, tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp. Có ý
kiến đặt vấn đề dù không tiến hành thu hồi và giao lại, Nhà nước cũng
cần có những văn bản rõ ràng.
Bởi đứng về mặt Nhà nước, đây là một
cuộc tổng rà soát, củng cố lại cơ sở dữ liệu. Luật đã quy định rõ, không
thể nói gia hạn là tùy ý ra nghị định để gia hạn. Vì nó còn liên quan
đến giấy chứng nhận quyền sở hữu, một khi giấy này hết hạn, các vấn đề
như thế chấp, chuyển nhượng… sẽ không thể thực hiện.
Mục đích “phát triển kinh tế” bị biến tướng
Trên thực tế, dù đã chuyển giao hầu hết
các quyền hạn cho người sở hữu, Nhà nước vẫn nắm quyền lực rất lớn trong
việc thu hồi đất, giao đất. Theo quy định của Hiến pháp, trong trường
hợp cần thiết, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng quyền sử dụng đất của
dân, có bồi thường thỏa đáng theo thời giá thị trường cho 3 mục đích:
quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia.
Tuy nhiên, đến Luật Đất đai 2003, quy
định này trở thành: Nhà nước có quyền thu hồi đất trong trường hợp vì
lợi ích quốc gia, an ninh quốc phòng và phát triển kinh tế. Chính việc
thu hồi đất vì mục đích phát triển kinh tế đã tạo ra những xung đột
không có hồi kết trong 10 năm Luật Đất đai 2003 được áp dụng.
Cơ chế thu hồi đất lỏng lẻo tạo ra nhiều tiêu cực trong đất đai vừa gây lãng phí. Ảnh: LÃ ANH
Theo quy định của Luật Đất đai, vì mục
đích kinh tế, Nhà nước chỉ thu hồi đất khi thực hiện các dự án đầu tư có
100% vốn nước ngoài; các dự án xây dựng hạ tầng chung. Thế nhưng trên
thực tế, mục đích “phát triển kinh tế” đã biến tướng đến mức gần như dự
án nào cũng đều do Nhà nước thu hồi đất, vừa tạo ra tiêu cực trong đất
đai vừa gây nên lãng phí.
Tính đến nay, cả nước đã có trên 260 khu
công nghiệp được thành lập, với tổng diện tích đất tự nhiên 71.394ha.
Trong đó, 173 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động (chiếm 46%), với tổng
diện tích đất tự nhiên 43.718ha. Như vậy, còn đến hơn 50% diện tích đất
nông nghiệp bị thu hồi đang bỏ hoang, trong khi nông dân ở đó mất công
ăn việc làm.
GS. Võ cho biết: “Hiện nay cơ chế của chúng ta nhẹ nhàng quá, người ta không trân trọng đất đai vì chỉ cần có dự án là Nhà nước sẽ thu hồi đất. Điều này ngoài hệ quả về kinh tế là nông dân không có việc làm, còn dẫn đến hệ quả xã hội nghiêm trọng hơn: người nông dân không đứng về phía chính quyền”.
Theo các chuyên gia, sửa đổi Luật Đất
đai 2003 là cơ hội để chúng ta đưa các quy định này về theo đúng tinh
thần của Hiến pháp. Hiến pháp không nói đến cơ chế Nhà nước thu hồi đất,
Luật Đất đai lại quy định điều này.
Do đó, có thể không cần phải sửa đổi vấn đề sở hữu nếu quá phức tạp, nhưng nhất thiết phải chuyển cơ chế Nhà nước thu hồi đất thành cơ chế Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng quyền sử dụng đất để tránh cho người nông dân lâm vào tình cảnh “chơ vơ” ngay trên chính ruộng đồng của mình, tránh nhiều trường hợp như vụ Tiên Lãng có thể xảy ra trong tương lai.