Khống chế lãi suất cho vay có thể gây méo mó hoạt động ngân hàng, nới trần lãi suất huy động tiền đồng lúc này cũng không khả thi vì lạm phát đang có xu hướng giảm, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước khẳng định chiều 26/5.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu
Thị trường những ngày gần đây lan truyền thông tin
Ngân hàng Nhà nước có thể khống chế lãi suất cho vay tiền đồng ở mức
18-19% và nới trần lãi suất huy động lên trên 14%. Thực hư của các
phương án này là như thế nào, thưa Thống đốc?
Đã có vài ý
kiến đề cập tới chuyện này, nhưng tôi khẳng định đây không phải là chủ
trương của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước cũng chưa đưa ra
bất cứ điều chỉnh nào về lãi suất cho vay cũng như huy động tiền đồng.
Về lý thuyết, khống chế lãi suất cho vay có vẻ tốt, tưởng như sẽ khiến
xã hội yên tâm. Nhưng hệ lụy của nó rất lớn. Cầu tín dụng đang cao hơn
so với cung, nếu áp trần sẽ không khả thi và nhiều rủi ro. Điều tôi sợ
nhất là sự biến tướng lách trần, dẫn tới tiêu cực trong cán bộ. Tôi cho
anh vay 18% rồi anh biếu tôi 3-4%, phần tiền này đâu có chảy vào ngân
hàng ngân hàng. Khi người ta mua chuộc nhau có thể dẫn tới chuyện châm
chước cho nhau, nới lỏng điều kiện tín dụng. Hậu quả là không chỉ ngân
hàng đó rủi ro, mà còn gây tổn thương cho cả hệ thống.
Tôi
chưa bao giờ phân công một ai trong Ngân hàng Nhà nước nói về định
hướng lãi suất cả. Nếu có ai đó phát ngôn thì đó cũng không phải là chủ
trương của Ngân hàng Nhà nước và họ phải tự chịu trách nhiệm cá nhân
khi làm tổn thương các quyết sách của Đảng Nhà nước và điều hành của
Chính phủ.
Theo ông tại sao thị trường lại đồn thổi như vậy?
Quả thật trong những ngày tin đồn lan đi, thị trường liên ngân hàng có
hơi lộn xộn, lãi suất dâng cao, tỷ giá của các ngân hàng cũng tăng lên.
Nhưng có điều lạ là thời gian đó thanh khoản ngân hàng không có vấn đề
gì, Ngân hàng Nhà nước lại đang bơm tiền đồng ra với một khối lượng
lớn, mua vào rất nhiều đôla, có ngày mua trên 200 triệu USD.
Mấy hôm nay tiền bơm ra rất ít, ở mức thấp nhất vài ba tháng trở lại
đây, thị trường lại ổn định, tỷ giá xuống thấp cho dù Tổng cục Thống kê
đã công bố nhập siêu tăng cao.
Qua nhiều lần chiêm nghiệm, tôi tự hỏi liệu có ý đồ chính trị đằng sau những tin đồn đó hay không. Không
hiểu tại sao người ta lại muốn tung hứng tâm lý cho thị trường, người
ta cứ nói áp trần lãi suất cho vay rồi lại phân tích không nên làm, mà
thực tế Ngân hàng Nhà nước có động thái đó đâu, đã có tuyên bố chính thức gì đâu.
Nhưng
nhiều doanh nghiệp phàn nàn không thể tiếp cận vốn ngân hàng, lãi suất
quá cao và có thể khiến lạm phát cao hơn nữa. Ông nghĩ sao về điều này?
Tính đến 23/5, tín dụng cho nền kinh tế vẫn tăng ròng 135,8 nghìn tỷ
đồng, tương đương mức tăng 6,2% so với cuối năm ngoái, cao gấp 1,2 lần
tăng trưởng GDP. Một số thông tin gần đây cho rằng vài chục phần trăm
doanh nghiệp không tiếp cận được vốn ngân hàng. Tôi không đồng ý với
điều đó. Với những doanh nghiệp mới thành lập, có thể chưa tiếp cận
được vốn ngay. Nhưng những doanh nghiệp cũ thì không có chuyện đó. Vốn
đã rót cho anh từ trước rồi, nay vẫn tăng thêm 6,2%. Nếu anh không tiếp
cận được và phải trả lại ngân hàng vì lãi suất cao quá thì dư nợ tín
dụng phải giảm xuống chứ làm sao tăng được.
Mong muốn của
Chính phủ là kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô, qua được giai đoạn khó
khăn này, lãi suất sẽ giảm xuống. Mọi người cần chia sẻ khó khăn, chứ
giờ này yêu cầu tăng dư nợ cho vay hơn nữa làm sao thực hiện được. Khi
lãi suất cao, lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ không đạt như mong muốn
nhưng cũng không đến mức phá sản hàng loạt, đóng cửa hàng loạt như
người ta nói. Lãi suất là một chi phí tài chính quan trọng, nhưng không
phải là thứ quyết định sự sống còn của doanh nghiệp.
Bản thân
doanh nghiệp trong bối cảnh lãi suất cao thế này cũng phải đề ra giải
pháp vượt qua khó khăn, và tôi nghĩ phần nhiều sẽ chấp nhận giảm lợi
nhuận một chút để hạn chế tăng giá bán, giữ chân khách hàng. Nếu tăng
giá cao quá, không bán được hàng sẽ phải giảm xuống. Vì thế nói lãi
suất tăng cao sẽ khiến lạm phát tăng cao cũng không đúng lắm.
Các
ngân hàng cho rằng lãi suất cho vay tăng cao thời gian qua chủ yếu do
khó khăn về nguồn vốn, một số đơn vị đã phải đẩy lãi suất huy động vượt
trần cho phép. Vậy tại sao Ngân hàng Nhà nước không nới trần lãi suất
huy động lên trên 14% để gỡ khó cho họ?
Điều chỉnh lãi
suất phải nhìn theo tín hiệu kinh tế vĩ mô. Thực ra cuối tháng 4, Ngân
hàng Nhà nước có cân nhắc khi thấy giá thế giới biến động. Nhưng nay
giá đang giảm dần, các yếu tố địa chính trị trên thế giới cũng ổn định,
khó có thể đẩy giá lên cao hơn nữa.
Điều kiện vĩ mô đang tốt
lên, lạm phát đang giảm thì tại sao phải nâng trần lãi suất huy động?
Lạm phát cả năm liệu có lên tới 18% hay không mà đề nghị đẩy lãi suất
huy động lên 18%. Cũng không nên đòi hỏi lãi suất thực dương vào lúc
này, mà chúng ta chỉ hướng tới mục tiêu đó thôi. Khi thị trường kỳ vọng
chính sách tốt lên, lạm phát giảm xuống, những ai đề nghị tăng lãi suất
cần xem lại trách nhiệm của họ với xã hội, với đất nước.
Trong
điều kiện bình thường, các ngân hàng được thỏa thuận lãi suất, nhưng
khi có vấn đề, luật cho phép Ngân hàng Nhà nước can thiệp vào lãi suất
mà ngân hàng ấn định cho khách. Ngân hàng nào không chấp hành yêu cầu
đó sẽ bị xử phạt. Tại Hà Nội đã có một trường hợp bị phát hiện và xử
phạt. TP HCM cũng đang xem xét một vụ.
Vậy tại sao Ngân
hàng Nhà nước không kiểm soát lãi suất trên thị trường liên ngân hàng,
nơi các ngân hàng cho nhau vay với lãi suất còn cao hơn cả huy động từ
dân cư?
Có người đã đề nghị áp trần với cả 3 loại lãi
suất, lãi suất cho vay, huy động và trên thị trường liên ngân hàng.
Nhưng làm vậy sao được. Trong nền kinh tế thị trường không phải cái gì
cũng khống chế theo ý muốn chủ quan được. Khống chế càng lâu sẽ càng
méo mó. Với ngân hàng trung ương, khống chế lãi suất liên ngân hàng đâu
có khó, nếu muốn tôi có thể bơm tiền ra được ngay. Nhưng Ngân hàng Nhà
nước không làm thế vì mục tiêu dài hạn của chúng ta là kiểm soát lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Có
ý kiến từ Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia cho rằng nên tăng tỷ lệ dự
trữ bắt buộc để kiểm soát lãi suất cho vay. Ông nghĩ sao về giải pháp
này?
Các ngân hàng đang huy động 14-15% một năm. Dự trữ
bắt buộc tức là ông giữ của ngân hàng một lượng tiền nhất định mà chỉ
trả cho người ta lãi suất 1,2%. Vốn dĩ họ đã phải chịu âm lãi suất cho
khoản dự trữ bắt buộc đó rồi, nay muốn họ dự trữ nhiều hơn thì làm sao
lãi suất cho vay giảm xuống được? Vì thế người ta mới nói dự trữ bắt buộc là công cụ bạo lực, một cách hành xử bạo lực với thị trường.