Đó là một trong những nội dung đáng chú ý trong bài phát biểu của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình tại Hội thảo Bất ổn kinh tế vĩ mô và tác động phúc lợi, được tổ chức sáng 28/6 tại Hà Nội.
Tín dụng tăng 7,13%
Trong nội dung bài phát biểu của Phó Thống đốc Nguyễn Văn Bình, các số
liệu mới về tín dụng và cung tiền cũng được cập nhật. Cụ thể, đến ngày
20/6, tổng phương tiện thanh toán tăng 2,45% so với cuối năm 2010 và
tăng 18,8% so với cùng kỳ năm trước. Tín dụng tăng 7,13% so với cuối
năm ngoái và tăng 26,07% so với cùng kỳ năm 2010, trong đó tín dụng VND
tăng 2,67%, tín dụng bằng ngoại tệ tăng 23,4%.
So với dữ liệu
được Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra cách đây đúng 1 tháng, số liệu tăng
trưởng tín dụng cao hơn khoảng 97 điểm phần trăm (0,97%). Tuy nhiên,
cung tiền M2 cũng tăng thêm khoảng 86 điểm phần trăm (0,86%), mức khá
cao so với trước đó.
Theo Phó Thống đốc Nguyễn Văn Bình, số
liệu trên cho thấy khả năng đạt tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán
khoảng 15-16% và tín dụng dưới 20% cuối năm 2010.
Trong khi
đó, lãi suất huy động VND bình quân 15,15%, tăng 3% so với cuối năm
2010. “Các tổ chức tín dụng cạnh tranh bằng công cụ lãi suất để giữ thị
phần huy động thông qua việc thỏa thuận trả thêm chi phí cho người gửi
tiền”, Phó Thống đốc Nguyễn Văn Bình cho hay.
Lãi suất cho vay
VND bình quân 18,6%, tăng 3,2%/năm so với cuối năm 2010, lãi suất cho
vay đối với lĩnh vực xuất khẩu, nông nghiệp nông thôn, doanh nghiệp nhỏ
và vừa ở mức thấp hơn; lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng ở mức
khá cao trong 4 tháng đầu năm, nhưng từ đầu tháng 5 đến nay đã giảm,
hiện lãi suất qua đêm khoảng 13%/năm. Lãi suất huy động USD bình quân
khoảng 1,81%/năm, lãi suất cho vay USD bình quân 6,4%/năm.
Giảm mạnh dư nợ phi sản xuất
Về việc thực hiện Nghị quyết 11, bài phát biểu của Phó thống đốc cũng
đề cập, cơ cấu tín dụng đã phù hợp với mục tiêu của Chính phủ, cơ bản
đáp ứng nhu cầu vay của doanh nghiệp và hộ sản xuất.
Đến cuối
tháng 5, dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực sản xuất tăng 10,97% so với
cuối năm 2010, chiếm tỷ trọng 83% tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh
tế; tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu tăng
khoảng 25%, gấp hơn 3 lần tốc độ tăng trưởng tín dụng chung đối với nền
kinh tế.
Bên cạnh đó, dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất giảm
9,46% so với cuối năm 2010, chiếm tỷ trọng 16,91% tổng dư nợ tín dụng
đối với nền kinh tế. Dư nợ để đầu tư kinh doanh bất động sản là 220.787
tỷ đồng, giảm 6,16% so với cuối năm 2010, chiếm 9,4% dư nợ tín dụng
toàn hệ thống; tỷ lệ nợ xấu là 2,37%.
Trong khi đó, lãi suất huy động VND bình quân 15,15%, tăng 3% so với cuối năm 2010.
Lãi suất cho vay VND bình quân 18,6%, tăng 3,2%/năm so với cuối năm
2010, lãi suất cho vay đối với lĩnh vực xuất khẩu, nông nghiệp nông
thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa ở mức thấp hơn; lãi suất thị trường nội
tệ liên ngân hàng ở mức khá cao trong 4 tháng đầu năm, nhưng từ đầu
tháng 5 đến nay đã giảm, hiện lãi suất qua đêm khoảng 13%/năm. Lãi suất
huy động USD bình quân khoảng 1,81%/năm, lãi suất cho vay USD bình quân
6,4%/năm.
Nợ xấu tăng do bất động sản
Về những rủi ro có thể phát sinh, Phó thống đốc Nguyễn Văn Bình đã đề
cập đến các vấn đề về sai lệch cơ cấu nguồn vốn và nợ xấu bất động sản.
Cụ thể, dư nợ cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng khá lớn, tới 77%,
trong khi vốn huy động của các tổ chức tín dụng chủ yếu là ngắn hạn,
nên có thể phát sinh rủi ro thanh khoản.
Dư nợ cho vay xây
dựng, mua nhà, sửa chữa nhà để bán chiếm 45%, khả năng thu hồi nợ cho
vay đối với nhu cầu vốn này gặp khó khăn do giá nhà ở đang vượt quá khả
năng thu nhập của đại đa số người có nhu cầu mua nhà để ở, nên khả năng
tiêu thụ nhà ở đang có xu hướng chậm lại.
Phó thống đốc cũng
nhắc đến “nguy cơ rủi ro tín dụng và nợ xấu có xu hướng gia tăng do thị
trường bất động sản biến động thất thường, tình trạng đầu cơ còn phổ
biến, lãi suất vay tổ chức tín dụng tăng cao”.
Tuy vậy, theo
Phó thống đốc Nguyễn Văn Bình, hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng
an toàn, bảo đảm thanh khoản, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng nhưng ở mức
thấp, dưới 3%.
Đánh giá về những vấn đề nổi lên, cần phải xử
lý, ông Bình đề cập tới tình trạng lãi suất huy động, cho vay VND ở mức
cao, cạnh tranh không lành mạnh trong huy động; thanh khoản của các
ngân hàng thương mại được cải thiện nhưng vẫn khó khăn do huy động vốn
tăng chậm hơn tín dụng; tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng; thị trường ngoại
hối và tỷ giá còn tiềm ẩn rủi ro do nhập siêu có xu hướng gia tăng.







