![]() Tổng số tiền thu được từ thuế sử dụng đất nông nghiệp hàng năm chỉ khoảng 84 tỷ đồng. |
Tuy nhiên, tới đây chủ trương này
sẽ được thực hiện như thế nào, đối tượng nào được hưởng và thời gian áp
dụng trong bao lâu vẫn là những nội dung còn có các ý kiến khác nhau.
Tại phiên họp toàn thể lần thứ 21 của Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc
hội diễn ra ngày 9/9, những tranh luận trên vẫn chưa ngã ngũ.
Sao không sửa luật?
Báo cáo thẩm tra dự thảo về việc ban hành nghị quyết Quốc hội về việc
miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp giai đoạn 2011 - 2020 của Ủy ban
Tài chính Ngân sách của Quốc hội cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2003 -
2010, mỗi năm đã miễn, giảm cho trên 11 triệu hộ với diện tích miễn,
giảm khoảng hơn 5.400 ha, tổng số thuế miễn, giảm là 2.837 tỷ đồng.
Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp và đời sống người nông dân vẫn còn
nhiều khó khăn, thu nhập từ sản xuất nông nghiệp còn thấp. Việc tiếp tục
miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp sẽ góp phần giảm bớt khó khăn,
từng bước nâng cao thu nhập và ổn định đời sống người nông dân, khuyến
khích các tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất nông nghiệp.
Trước
thực tế đó, Ủy ban Tài chính - Ngân sách cho rằng việc ban hành nghị
quyết của Quốc hội quy định tiếp tục thực hiện miễn, giảm thuế sử dụng
đất nông nghiệp là cần thiết, thể hiện chính sách đúng đắn trong việc
tạo động lực tích lũy vốn của hộ gia đình nông dân, tăng đầu tư, thúc
đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp và nâng cao đời sống nông thôn.
Thế nhưng, theo ông Chu Văn Đạt, Bí thư Tỉnh ủy Nam Định (Ủy viên Ủy
ban Tài chính - Ngân sách), thực tế thì trong nhiều năm qua, cùng với
việc bỏ thuế nông nghiệp hay miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp,
người nông dân vẫn quan niệm rằng, Chính phủ đã bãi bỏ mọi khoản thuế
trong lĩnh vực nông nghiệp. Chính vì vậy, không có lý do gì chúng ta vẫn
cứ giữ nguyên luật thuế sử dụng đất nông nghiệp trong chục năm qua, rồi
lâu lâu lại ban hành một nghị quyết để “choàng” lên cả luật.
Ông Đạt băn khoăn, tại sao trong nhiều năm qua không sửa hẳn luật, bởi
trên nguyên tắc, nghị quyết không thể “vượt mặt” luật được. Đó là chưa
nói đến, có những điều khoản, giữa luật và nghị quyết đã không đồng
nhất.
Cùng quan điểm trên, ông Trần Hồng Việt, Phó chủ tịch Hội
đồng Nhân dân tỉnh Hậu Giang (Ủy viên Ủy ban Tài chính - Ngân sách),
nhấn mạnh tới đây Quốc hội nên miễn hoàn toàn thuế đối với diện tích đất
sản xuất nông nghiệp, thậm chí không nên thu phần diện tích vượt trội
định mức vì mỗi năm toàn quốc dự kiến cũng chỉ thu được 84 tỷ đồng cho
ngân sách.
Tuy nhiên, theo Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân
sách Phùng Quốc Hiển, nếu miễn tất thì sẽ gây ra tình trạng không công
bằng, bởi nếu chỉ có các hộ nông dân đơn thuần thì chấp nhận được, song
hiện đã có rất nhiều doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp với hàng nghìn
ha đất kinh doanh, sản xuất thu lãi rất lớn từ đất.
Ở góc độ
khác, ông Bùi Văn Tĩnh, Chủ tịch UBND tỉnh Hòa Bình lo ngại rằng, hiện
Việt Nam đã hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia nhiều tổ chức, liệu việc
miễn, giảm thuế có ảnh hưởng đến những cam kết trong WTO không. Hơn nữa,
đã miễn giảm thuế thì phải áp dụng cho mọi đối tượng vì tổng số thu
không nhiều, trong khi hiện thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp vẫn
gặp rất nhiều khó khăn.
“Việc thu thuế sử dụng đất nông nghiệp
thực chất là nhằm vào sản xuất nông nghiệp. Còn nếu sử dụng đất sai mục
đích thì nhà nước phải thu hồi ngay”, ông Tĩnh nói.
5 hay 10 năm?
Liên quan đến thời hạn miễn, giảm, Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Phan Đình
Trạc đưa ra quan điểm, thời hạn miễn giảm chỉ nên 5 năm, vì hiện đang
có “xung đột” là nghị quyết “to” hơn luật. Nếu kéo dài quá sẽ xảy ra
tình trạng “quên” luật. Thời hạn này cũng là quan điểm của một số thành
viên khác trong Ủy ban Tài chính - Ngân sách.
Tuy nhiên, cũng
có ý kiến cho rằng, nếu miễn, giảm trong 5 năm thì quá ngắn, không đủ
cho người nông dân lập kế hoạch nuôi, trồng trên một diện tích đất nhất
định. Theo ông Vũ Hồng Hà , Ủy viên Ủy ban Tài chính - Ngân sách, 10 năm
sẽ là khoảng thời gian hợp lý vì nó phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế của quốc gia.
Ngoài ra, theo ông Phan Đình Trạc, đối
với diện tích ngoài hạn mức thì cũng không nên giảm đồng đều 50% mà nên
tính theo quy mô diện tích đất. Riêng đối với diện tích đất trồng lúa,
làm muối, đất phục vụ nghiên cứu thì nên miễn 100%.
“Hiện Chính
phủ cũng đã và đang có chủ trương khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp,
trong khi đối tượng chính của luật thuế này là các hộ nông dân, không
phải là doanh nghiệp nên cần phải xem xét kỹ thu hay không để tránh mẫu
thuẫn với các chính sách hiện hành”, ông Trạc khuyến nghị.
Tiếp
thu ý kiến của các đại biểu, Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Hoàng Anh Tuấn
cho biết, sắp tới Bộ sẽ sửa lại dự thảo theo hướng đất trong hạn mức sẽ
được miễn hoàn toàn, trên hạn mức được giảm và trên hạn mức tích tụ thì
thu 100%. Đất trồng lúa, làm muối có thể sẽ được miễn toàn bộ, đất dành
cho mục đích nghiên cứu khoa học phục vụ nông nghiệp được miễn thay vì
giảm thuế.
Phát biểu tại phiên họp, Phó chủ tịch Quốc hội
Nguyễn Đức Kiên cho rằng, sản xuất nông nghiệp là một trong những lĩnh
vực dễ gặp rủi ro, thu nhập của người nông dân bấp bênh, không ổn định,
số vốn đầu tư vào nông nghiệp chưa nhiều.
Phó chủ tịch Quốc hội
cũng cho rằng, số thu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp không nhiều,
trong khi đời sống người nông dân còn khó khăn. Do đó, quan trọng là
phải đảm bảo cho người nông dân có đất trực tiếp sử dụng hoặc gián tiếp
tham gia sử dụng phải có cuộc sống ổn định, không bấp bênh, giúp họ nâng
cao đời sống.
“Việc miễn thuế đối với toàn bộ diện tích đất
trồng lúa, đất làm muối, đất phục vụ nghiên cứu phát triển nông nghiệp.
Thời hạn miễn, giảm 10 năm là phù hợp, thậm chí dài hơn nữa”, Phó chủ
tịch Quốc hội nói.







