Làng nổi và đảo đá ở Vịnh Hạ Long. Trong những năm qua, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã cho thấy sự tăng trưởng đáng kể, ngay cả trong bối cảnh kinh tế bị gián đoạn do đại dịch. Ảnh: GETTY
Bài viết mới đăng trên Forbes đưa tin, nền kinh tế thế giới đã trải qua giai đoạn vô cùng khó khăn kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát. Nhưng trong bối cảnh thế giới bị gián đoạn, nhiều nền kinh tế vẫn ghi nhận tăng trưởng đáng kể về GDP bình quân đầu người từ năm 2020 đến năm 2021, trong đó có Việt Nam.
Theo số liệu mới nhất từ Ngân hàng Thế giới, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 3.694,02 USD (tính đến năm 2021). Việt Nam là một trong số ít quốc gia vượt qua tác động kinh tế của đại dịch khá tốt. Năm 2019, trước đại dịch, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 3.425,09 USD, trước khi tăng lên 3.526,27 USD vào năm 2020, rồi tăng trở lại lên 3.694,02 USD. Trên thực tế, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng mạnh kể từ khoảng năm 2005.
Khi xem xét tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người hàng năm, Ngân hàng Thế giới sẽ tính tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam theo đồng nội tệ cố định. Do đó, nếu chỉ tính toán tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người hàng năm của Việt Nam theo giá trị đồng USD ở thời điểm hiện tại thì số liệu sẽ không khớp với tốc độ tăng trưởng hàng năm do Ngân hàng Thế giới cung cấp.
Nền kinh tế Việt Nam chứng kiến tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt 1,72% (sử dụng giá trị đồng USD hiện tại, 3.694,02 USD vào năm 2021 so với 3.526,27 USD vào năm 2020, tốc độ tăng trưởng hàng năm là 4,76% ).
Từ năm 2019 đến năm 2020, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người hàng năm của Việt Nam là 2,01%, chậm lại so với tốc độ tăng trưởng hàng năm 6,13% của giai đoạn 2018-2019, nhưng vẫn tích cực.
Dưới đây là GDP bình quân đầu người của Việt Nam tính theo USD hiện tại trong 15 năm qua:
Năm 2006, GDP bình quân đầu người của Việt Nam: $784,37
Năm 2007, GDP bình quân đầu người của Việt Nam: 906,28 USD
Năm 2008, GDP bình quân đầu người của Việt Nam: 1.149,42 USD
Năm 2009, GDP bình quân đầu người của Việt Nam: 1.217,27 USD
Năm 2010, GDP bình quân đầu người của Việt Nam: 1.673,33 USD
Năm 2011, GDP bình quân đầu người của Việt Nam: 1.942,09 USD
Năm 2012, GDP bình quân đầu người của Việt Nam: 2.178,04 USD
Năm 2013, GDP bình quân đầu người của Việt Nam: 2.354,87 USD
Năm 2014, GDP bình quân đầu người của Việt Nam: 2.545,42 USD
Năm 2015, GDP bình quân đầu người của Việt Nam: 2.581,62 USD
Năm 2016, GDP bình quân đầu người của Việt Nam: 2.745,57 USD
Năm 2017, GDP bình quân đầu người của Việt Nam: 2.974,12 USD
Năm 2018, GDP bình quân đầu người của Việt Nam: 3.230,93 USD
Năm 2019, GDP bình quân đầu người của Việt Nam: 3.425,09 USD
Năm 2020, GDP bình quân đầu người của Việt Nam: 3.526,27 USD
Năm 2021, GDP bình quân đầu người của Việt Nam: 3.694,02 USD
Từ năm 2006 đến 2021, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng gần 371% (tăng trưởng 100% có nghĩa là tăng gấp đôi, vì vậy 300% là tăng gấp bốn lần). Theo Forbes, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người ấn tượng này càng có ý nghĩa hơn khi xem xét kỹ hơn quá trình phát triển của nền kinh tế Việt Nam so với cùng kỳ kể từ năm 2006.
GDP bình quân đầu người Việt Nam: Nhìn lại kinh tế Việt Nam qua các năm
Forbes sử dụng dữ liệu từ Đài quan sát mức độ phức tạp kinh tế (OEC) để phân tích mức độ thay đổi của nền kinh tế Việt Nam trong 15 năm qua. Theo đó, trở lại năm 2006, sản phẩm xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là dầu thô, chiếm 16,9% kim ngạch xuất khẩu của nước này trong năm đó và tương đương 7,72 tỷ USD. Đến năm 2020, xăng dầu thô chỉ chiếm 0,54% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tương đương 1,64 tỷ USD. Thay vào đó, thiết bị phát thanh truyền hình đã trở thành mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam, chiếm 14% kim ngạch xuất khẩu, với giá trị 42 tỷ USD. Đứng thứ hai là mặt hàng điện thoại, chiếm 7,14% tổng trị giá xuất khẩu và tương đương 21,4 tỷ USD. Xuất khẩu mạch tích hợp đứng thứ ba, chiếm 6,48% tổng giá trị xuất khẩu và tương đương 19,4 tỷ USD.
Cả ba mặt hàng xuất khẩu hàng đầu nói trên của Việt Nam đều thuộc danh mục Máy móc và danh mục này hiện là lĩnh vực lớn nhất trong tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam.
Sự tương phản giữa xuất khẩu của Việt Nam năm 2020 và 2006 là rất rõ rang, theo Forbes. Quay trở lại năm 2006, thiết bị phát thanh truyền hình chỉ chiếm 0,09% tổng kim ngạch xuất khẩu, trị giá vỏn vẹn 41 triệu USD so với 42 tỷ USD xuất khẩu thiết bị phát thanh truyền hình vào năm 2020.
Các quốc gia xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam cũng đã phát triển rõ rệt kể từ năm 2006. Trở lại năm 2006, hàng đầu thị trường xuất khẩu của Việt Nam là Hoa Kỳ, chiếm 19,8% (9,02 tỷ USD) tổng giá trị xuất khẩu. Đến năm 2020, mặc dù Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam, Hoa Kỳ hiện chiếm 25,6% (77 tỷ USD) tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam.
Một quốc gia điểm đến khác cần lưu ý là Trung Quốc. Trở lại năm 2006, xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chiếm 5,74% (2,62 tỷ USD) tổng giá trị xuất khẩu. Đến năm 2020, Trung Quốc vươn lên vị trí thứ hai trong số các thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam, chiếm 16,5% (49,4 tỷ USD) tổng giá trị xuất khẩu. Trong khi đó, xuất khẩu sang Nhật Bản năm 2006 chiếm 12,4% (5,68 tỷ USD) tổng giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên, đến năm 2020, xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản chỉ chiếm 6,79% tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của Việt Nam sang Australia cũng sụt giảm mạnh từ năm 2006 đến 2020: Trở lại năm 2006, Australia chiếm 8,32% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam nhưng đến năm 2020 Australia chỉ chiếm 1,35%.
Trong 10 năm qua, từ 2010 đến 2020, thị trường xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhất của Việt Nam là Hoa Kỳ, trong đó giá trị xuất khẩu tăng 62,3 tỷ USD, tương ứng với tỷ lệ tăng trưởng 424%. Tuy nhiên, thị trường xuất khẩu tăng trưởng nhanh thứ hai - Trung Quốc - có giá trị xuất khẩu tăng 42,7 tỷ USD nhưng tương đương với mức tăng trưởng phần trăm là 631%. Thị trường xuất khẩu tăng trưởng nhanh thứ ba của Việt Nam là Hàn Quốc, với giá trị xuất khẩu tăng 16,4 tỷ USD nhưng tương đương với tỷ lệ tăng trưởng 503%, vượt xa tốc độ tăng trưởng tương ứng giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam có thể phần lớn là do nền kinh tế Việt Nam ngày càng đa dạng hóa và phức tạp, theo Forbes. Theo OEC, trong 20 năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã gia tăng mức độ phức tạp, tăng thứ hạng trên các Chỉ số Phức hợp Kinh tế (ECI) từ thứ 83 lên thứ 61 trên thế giới. Xếp hạng mức độ phức tạp về kinh tế của Việt Nam tốt hơn nhiều so với các nước láng giềng, chẳng hạn như Campuchia (thứ hạng ECI là 102) hay Lào (thứ hạng ECI là 104). Năm 2017, mức độ phức tạp về kinh tế của Việt Nam đã vượt qua Indonesia và duy trì ở trên kể từ đó.
Tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam tính theo USD không đổi
Phân tích GDP bình quân đầu người của Việt Nam theo đồng USD cố định năm 2015 (ngược với đồng USD hiện tại) của Forbes cho thấy, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam vẫn rất ấn tượng.
Tính theo đồng USD không đổi năm 2015, GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng từ mức 1.650,63 USD năm 2006 là lên 3.373,08 USD vào năm 2021. Con số này tương đương với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam trong 15 năm là 104,4%, theo Forbes.
“Nhìn chung, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã thể hiện mức tăng trưởng ấn tượng nhất trong số tất cả các quốc gia trên thế giới. Xu hướng này phản ánh sự năng động của nền kinh tế Việt Nam và sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế này trong những năm qua”, Forbes nhận định.
Dưới đây là bảng chi tiết GDP bình quân đầu người của Việt Nam tính bằng USD hiện tại, USD không đổi năm 2015 và tốc độ tăng trưởng hàng năm (dựa trên đồng nội tệ không đổi):
-
Tăng trưởng GDP ước đạt 8%, lãi suất tăng liên tiếp 2 lần trong 1 tháng: Nước lên, thuyền lên
Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) nhanh hơn dự kiến trong năm nay đã tạo điều kiện cho ngân hàng trung ương tăng lãi suất chính sách.