Tầm nhìn của người xưa
Hơn 1000 năm trước, Đức
Vua Lý Thái Tổ quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Quyết định này
đã mở ra một trang sử mới trong lịch sử Đại Việt. Định đô ở chính trung
tâm đồng bằng Bắc Bộ đã tạo đà cho sự phát triển rực rỡ của văn minh
Đại Việt. Sau khi kinh đô được chuyển tới Thăng Long, tứ trấn của Thăng
Long dần được hình thành. Tứ trấn Thăng Long gồm: Trấn Đông - Đền Bạch
Mã, trấn Tây - đền Voi Phục, trấn Nam - đền Kim Liên, trấn Bắc - đền
Trấn Vũ. Đó có thể coi là 'quy hoạch' đầu tiên của thủ đô, giới hạn
không gian văn hoá của Thăng Long.
Từ bốn 'cột mốc' này, các trấn ven Thăng Long hình thành và phát triển. Xứ Đông là đất Hải Dương, Hải Phòng ngày nay, địa danh nhiều lần thay đổi nhưng được biết đến nhiều nhất với danh xưng đất Hải Đông. Xứ Nam có vùng đất căn bản là Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, quen gọi là trấn Sơn Nam. Xứ Đoài, xứ Bắc, có lẽ không cần phải bàn nhiều vì những danh xưng này đã quá nổi tiếng. Tứ trấn là bốn vùng đất bao bọc lấy kinh thành. Theo ngôn ngữ đương đại, thì cách đây ngàn năm, đã có sự quy hoạch về 'vùng thủ đô', khi có sự phân biệt rạch ròi giữa bốn xứ này, với các xứ khác của đất nước. Điển hình của việc phân định này là dưới triều Trần, trong các khoa thi, có phân biệt giữa 'kinh Trạng nguyên' và 'trại Trạng nguyên'. Việc 'quy hoạch' này, trải ngàn năm sau, vẫn giữ nguyên giá trị. Bốn vùng đất đó, không được chia tách một cách ngẫu nhiên mà dựa trên căn cứ vào nhiều yếu tố văn hoá - kinh tế xã hội. Tứ trấn chính là bốn tiểu vùng văn hoá tồn tại mãi đến sau này.
Ngay trong thời phong kiến, các khu vực
của kinh thành Thăng Long được phân định những chức năng khác nhau. Khu
phố cổ, tập trung các nghề thủ công. Khu làng trại (các phường Ngọc Hà,
Ngọc Khánh, Giảng Võ, Nhật Tân...) trồng rau, hoa, các loại nông sản
phục vụ cho nhu cầu đô thị. Các làng ven kinh đô cũng hình thành các
nghề, thường đem bán phục vụ nhu cầu thị dân vào dịp chợ phiên.
Sau
một thời gian mất vị trí kinh đô, Hà Nội lại trở thành thủ phủ của Đông
Dương khi Việt Nam chịu sự quản lý của người Pháp. Cho đến giờ, quy
hoạch của người Pháp và việc thực thi quy hoạch đó vẫn được giới kiến
trúc sư trong và ngoài nước đánh giá cao. Khu vực phố cổ vẫn tiếp tục
được bảo tồn. Không gian của thành phố được mở rộng với hai khu vực mới,
đó là khu vực Ba Đình ngày nay, và khu vực phía Nam khu phố cổ. Từ một
thành phố với hai khu vực chính là Hoàng thành và phố cổ, Hà Nội được mở
rộng, trở thành một đô thị hiện đại. Dấu ấn rõ nét nhất của Hà Nội
'mới', là sự hài hoà giữa các toà nhà, với thiên nhiên.
Tiến sỹ Đào Ngọc Nghiêm đánh giá rằng, người Pháp đã khai thác tối đa cây xanh - mặt nước, tạo dấn ấn riêng cho Hà Nội, không giống bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Giữa những toà nhà lớn, luôn có những khoảng không gian cây xanh hay mặt nước tạo nên một nhịp điệu xanh. Người Pháp luôn tận dụng khoảng không để tạo ra những vườn hoa. Ngay cả những không gian không lớn, kẹt giữa các con phố, vẫn có những vườn hoa như vườn hoa Cửa Nam, vườn hoa Diên Hồng (Con Cóc)...
Người Pháp đã rời Hà Nội gần
sáu thập kỷ. Cho dù đó là thời kỳ chúng ta là thuộc địa, thời kỳ chịu
ách đô hộ, nhưng dấu ấn kiến trúc, quy hoạch đô thị của người Pháp đối
với thành phố là không thể phủ nhận, là những di sản có tính trường tồn.
Chúng ta sẽ để lại gì cho mai sau?
Quy
hoạch chung xây dựng thủ đô đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được
thông qua. Người ta có thể đặt nhiều hy vọng khi định hướng Hà Nội
trong tương lai sẽ là một đô thị xanh - văn hiến - văn minh - hiện đại.
Nhưng nhìn chung, có thể nhận thấy, điểm chủ yếu của Quy hoạch vẫn là
'chữa cháy' cho những vấn đề đang tồn tại bức xúc, trong đó, điển hình
là ách tắc giao thông, ô nhiễm môi trường...
Theo quy hoạch, quy
mô dân số Hà Nội đến năm 2015 đạt 7,2-7,3 triệu người. Năm 2020 khoảng
7,9-8 triệu người và năm 2030 khoảng 9,2 triệu người. Thực tế, theo kết
quả tổng kiểm tra định kỳ hộ khẩu năm 2010 của Công an Thành phố Hà Nội,
tính đến ngày 30-10-2010, toàn thành phố có 1.702.552 hộ, 6.913.161
nhân khẩu (trong đó, nhân khẩu cư trú tại nơi đăng ký thường trú (KT1)
là 5.915.796 nhân khẩu). So với thời điểm tháng 10-2009, dân số ở 29
quận, huyện, thị xã tăng 78.625 hộ (4,8%) và 175.596 nhân khẩu (2,6%).
Nếu
giữ vững tốc độ này, mỗi năm, trung bình dân số Hà Nội tăng tương đương
với việc có thêm hẳn... một huyện. Việc Hà Nội tiếp tục là nơi thu hút
các luồng dân cư khiến tốc độ gia tăng cơ giới luôn ở mức chóng mặt sẽ
tiếp tục gây áp lực lên cơ sở hạ tầng. Rất có thể tốc độ gia tăng dân số
sẽ nhanh chóng biến quy hoạch trở nên lạc hậu.
Để giảm tải, Hà
Nội sẽ phát triển khu đô thị vệ tinh. Song, liệu đô thị vệ tinh có đủ
sức hút để giảm tải dân số cho trung tâm hay không cũng là câu hỏi lớn.
Bên cạnh đó, các đô thị này hiện phần lớn nằm ở khu vực ngoại thành.
Việc phát triển các khu đô thị, thu hút dân cư, khiến nhiều chuyên gia
lo ngại sẽ phá vỡ quy hoạch nông nghiệp của thành phố. Bởi đã thành tiền
lệ, ở đâu có đô thị, ở đó có sốt đất. Cơn sốt bán đất ruộng ngoại thành
từng bùng phát và chưa thể khẳng định nó không tái phát.
Có thể
coi vành đai xanh là điểm nhấn lớn nhất trong quy hoạch thủ đô. Nhưng đã
có nhiều câu hỏi đặt ra ngay khi Quy hoạch được trưng bày. Đến năm
2030, đất xây dựng đô thị chiếm hơn 28% diện tích tự nhiên, 70% diện
tích đất tự nhiên còn lại của thành phố được dành cho không gian xanh.
Nhưng từ ý tưởng đến thực tế lại là một khoảng cách.
Tại đồ án
Quy hoạch chung Thủ đô đang được trưng bày công khai tại Cung quy hoạch
Kiến trúc, chúng ta biết, toàn bộ vành đai xanh mong muốn thực hiện như
trong Đồ án Quy hoạch rõ ràng đang có những điểm dân cư đan xen. Đó là
các làng thuộc huyện Đan Phượng, Thạch Thất, Chương Mỹ…Tuy nhiên, liệu
chúng ta đã tính hết việc cư dân ở đây sẽ tiếp tục phát triển, các công
trình sẽ tiếp tục được xây dựng để đáp ứng nhu cầu dân sinh. Như thế,
cùng với thời gian, tương lai của vành đai xanh, rất có thể sẽ là
những... điểm dân cư chi chít.
Nếu hỏi bất kỳ người dân thủ đô
chờ đợi gì ở sự phát triển của thành phố, ta sẽ có câu trả lời khá thống
nhất. Không phải là tốc độ tăng trưởng, không phải là những con số
thống kê... Đó là ra đường không bị tắc, đó là được hít thở không khí
trong lành, đó là vỉa hè không bị lấn chiếm, xả rác, đó là các di tích
lịch sử văn hoá không bị phá hoại, lấn chiếm, đó là được hưởng thụ các
giá trị văn hoá, các dịch vụ... chất lượng cao. Nói một cách hoa mỹ, đó
là chất lượng cuộc sống được nâng cao, người dân chờ đợi một thành phố
có tính nhân văn.
Lịch sử đến năm 2050 không dừng lại, mà vẫn sẽ tiếp tục. Diện mạo thành phố ra sao phụ thuộc vào chúng ta hôm nay. Nó bắt đầu từ việc giải toả tắc đường, giải toả lấn chiếm vỉa hè…
Chúng ta được thừa hưởng một Hà Nội văn hiến từ các triều đại phong kiến, một đô thị Hà Nội văn minh, với kiến trúc, quy hoạch hài hoà với tự nhiên của người Pháp. Nhưng từ bản quy hoạch soi lại lịch sử của thành phố, chúng ta không thể không đặt ra câu hỏi, chúng ta sẽ để lại dấu ấn gì cho mai sau?







