Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) giữ nguyên quy định của Luật Đất đai năm 2003, theo đó, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với tài sản của cả vợ và chồng thì phải ghi tên của cả hai vợ chồng…

Theo nhận định của Diễn đàn chính sách quản lý và sử dụng đất đai vùng đồng bào dân tộc thiểu số, mặc dù Việt Nam cam kết thúc đẩy bình đẳng giới, nhưng các nghiên cứu đều chỉ ra rằng nam giới tiếp cận nhiều với đất đai hơn nữ giới và phụ nữ đặc biệt dễ có nguy cơ mất quyền sử dụng đất khi ly hôn hoặc khi chồng mất.

Theo đó, trước khi có Luật đất đai năm 2003, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp dưới tên “chủ hộ gia đình”. Do vậy, nam giới được hưởng lợi hơn từ quy định này. Theo điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2004, có tới 66% đất đai được đăng ký quyền sử dụng dưới tên của chủ hộ là nam, 19% chủ hộ là nữ và chỉ có 15% là có tên cả vợ và chồng.

Luật Đất đai năm 2003 ra đời là một bước tiến quan trọng đối với bình đẳng giới trong việc yêu cầu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải ghi cả tên vợ và tên chồng đối với tài sản có trong hôn nhân. Trên thực tế, việc thực hiện điều này còn tiến triển chậm, theo Điều tra mức sống hộ gia đình năm 2008, chỉ có 10,9% giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, 18,2% giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở nông thôn và 29,8% giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở đô thị là ghi tên cả vợ và chồng.

Mới đây, một khảo sát được thực hiện trong năm 2012, với 1250 người tham gia phỏng vấn cho thấy, có 45% các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở chỉ có tên chồng, trong khi chỉ 22% là có cả tên vợ và chồng, 19% có vợ đứng tên một mình.

“Tuy chỉ là một bước nhỏ trong việc tiến tới đạt bình đẳng giới trong tiếp cận với đất đai, nhưng quy định này vẫn rất quan trọng. Hơn nữa, trọng tâm vấn đề không chỉ là đảm bảo điều khoản này được giữ lại, mà còn cần phải có những biện pháp chính sách nhằm tăng cường việc thực thi một cách hiệu quả” - Bản kiến nghị Chính sách chung về đất đai của Diễn đàn Diễn đàn chính sách quản lý và sử dụng đất đai vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhấn mạnh.

Trước thực trạng này, mới đây, góp ý cho Dự thảo sửa đổi Luật Đất đai 2003, Diễn đàn chính sách quản lý và sử dụng đất đai vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã đưa ra khuyến nghị, cần giữ nguyên quy định của Luật Đất đai năm 2003, theo đó, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với tài sản của cả vợ và chồng phải ghi tên của cả vợ và chồng, đồng thời tăng cường việc thực thi điều khoản này.

Ảnh minh họa

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với tài sản của cả vợ và chồng thì phải ghi tên của cả hai vợ chồng…

Dự thảo vẫn giữ quy định ghi cả tên vợ, chồng vào Giấy chứng nhận

Tuy nhiên, trên thực tế, bản Dự thảo sửa đổi Luật Đất đai 2003 vừa được đưa ra lấy ý kiến của người dân đã quy định rất rõ nội dung này. Theo đó, trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng thì phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng vào Giấy chứng nhận.

Dự thảo cũng quy định, trường hợp quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng mà Giấy chứng nhận đã cấp chỉ ghi họ, tên của vợ hoặc chồng thì được cấp đổi sang Giấy chứng nhận để ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng nếu có nhu cầu.

Ngoài ra, cũng tại Điều 94 về nguyên tắc cấp Giấy chứng nhận, Dự thảo quy định, Giấy chứng nhận được cấp theo từng thửa đất. Trường hợp người sử dụng đất đang sử dụng nhiều thửa đất nông nghiệp tại cùng một xã, phường, thị trấn mà có yêu cầu thì được cấp một Giấy chứng nhận chung cho các thửa đất đó.

Trong trường hợp thửa đất có nhiều người sử dụng đất, nhiều chủ sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất thì Giấy chứng nhận được cấp cho từng người sử dụng đất, từng chủ sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hoặc cấp chung một giấy và trao cho người đại diện nếu các chủ sử dụng có yêu cầu.

Dự thảo cũng quy định, người sử dụng đất, chủ sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất được nhận Giấy chứng nhận sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; trường hợp không thuộc đối tượng phải thực hiện hoặc được miễn, được chậm nộp nghĩa vụ tài chính và trường hợp thuê đất trả tiền hàng năm thì được nhận Giấy chứng nhận sau khi được người có thẩm quyền cấp.

Tuệ Khanh (VnMedia)
  • Facebook
  • Chia sẻ
  •   Lưu tin
  •   Báo cáo

    Báo cáo vi phạm
     
 
Mọi ý kiến đóng góp cũng như thắc mắc liên quan đến thị trường bất động sản xin gửi về địa chỉ email: [email protected]; Đường dây nóng: 0942.825.711.