22/06/2025 11:30 AM
Luật sư Nguyễn Thị Thu, Đoàn luật sư TP. Hà Nội cho rằng, nếu bỏ hoàn toàn thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư mà chưa có hệ thống thay thế đủ mạnh về hậu kiểm, công khai quy hoạch và dữ liệu quản lý đầu tư, nhà quản lý sẽ đối diện với nguy cơ bỏ lọt rủi ro hoặc bị lợi dụng.

Luật sư Nguyễn Thị Thu.

Thủ tục đầu tư trở thành rào cản kỹ thuật, nặng tính xin – cho

- Việc bỏ hay không bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư đang tạo ra tranh luận gay gắt. Quan điểm của bà như thế nào?

Luật sư Nguyễn Thị Thu: Hiện nay, liên quan đến chấp thuận chủ trương đầu tư, đang có ba luồng quan điểm bao gồm giữ, bỏ, và sửa đổi. Ở góc độ cá nhân, tôi nghiêng về phương án “sửa” – tức là cải cách mạnh mẽ, thu hẹp phạm vi áp dụng và làm rõ mục tiêu của thủ tục này.

Thực tế thời gian qua cho thấy việc giữ nguyên thủ tục như hiện tại tạo ra gánh nặng lớn về thủ tục hành chính, làm kéo dài thời gian chuẩn bị đầu tư, gây khó khăn cho nhà đầu tư – nhất là trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI ngày càng gay gắt. Cùng với đó, nhiều nội dung thẩm định trong thủ tục xin chấp thuận chủ trương đầu tư hiện tại bị lặp lại, chồng chéo với các thủ tục khác như đánh giá tác động môi trường, quy hoạch, giao đất, cấp phép xây dựng… Điều này dẫn đến tình trạng "hành là chính", giảm hiệu quả quản lý và tạo dư địa cho tiêu cực.

Tuy nhiên việc bỏ hoàn toàn thủ tục này là không nên, vì dù còn nhiều bất cập, nhưng với một số loại dự án đặc biệt, như dự án liên quan đến an ninh – quốc phòng, sử dụng nhiều đất, nằm ngoài quy hoạch, hoặc có yếu tố nhạy cảm về môi trường, xã hội, thì cơ chế xin chấp thuận chủ trương vẫn đóng vai trò kiểm soát chính sách quan trọng. Nếu bỏ hoàn toàn thủ tục này mà chưa có hệ thống thay thế đủ mạnh về hậu kiểm, công khai quy hoạch và dữ liệu quản lý đầu tư, thì nguy cơ bỏ lọt rủi ro hoặc bị lợi dụng là rất lớn.

- Nhiều lãnh đạo doanh nghiệp cho rằng đây là giấy phép con trá hình và việc bỏ thủ tục này sẽ giải phóng một nguồn lực lớn cho doanh nghiệp?

Luật sư Nguyễn Thị Thu: Xét về mặt pháp lý, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư không phải là một loại giấy phép hành chính mà là một bước trong quy trình kiểm soát và định hướng chiến lược phát triển – tức là mang tính "gật đầu" về mặt chính sách, quy hoạch và định hướng phát triển kinh tế – xã hội của từng địa phương hoặc cả nước.

Tuy nhiên, trên thực tế, thủ tục này đang bị hành chính hóa quá mức, trở thành một “rào cản kỹ thuật” khiến nhà đầu tư buộc phải “xin - cho” từ khâu đầu tiên, đặc biệt với các dự án có yếu tố sử dụng đất, tài nguyên hoặc liên quan đến quy hoạch.

Một số biểu hiện biến tướng thành “giấy phép con” có thể kể đến như: các yêu cầu thủ tục kéo dài, không rõ ràng, trong khi các bước thẩm định tại nhiều cấp có nội dung chồng lấn lên nhau; các địa phương, cơ quan thẩm định thường thiếu cơ chế phối hợp đồng bộ, dẫn đến tình trạng dự án bị “treo” trong thời gian dài chờ ý kiến nhiều bên, đôi khi là không thể tiến hành hoàn thiện dự án theo đúng tiến trình đề ra trước đó; một số trường hợp, thủ tục này bị lợi dụng để gây khó dễ cho nhà đầu tư, hoặc tạo dư địa cho tham nhũng vặt, xin cho, đi lại nhiều lần, thực chất không phải là chưa đủ điều kiện để thực hiện mà còn là ở việc gây khó dễ cho nhau.

Đặc biệt với các dự án có đất đai, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư thường gắn liền với quy trình điều chỉnh quy hoạch, chuyển mục đích sử dụng đất… khiến quy trình càng thêm rối rắm và nặng tính xin – cho.

- Bà có thể nói rõ hơn về những biểu hiện cụ thể của sự rối rắm và nặng tính xin cho của thủ tục này?

Luật sư Nguyễn Thị Thu: Từ thực tế tư vấn cho khách hàng, tôi có thể liệt kê một số trường hợp vướng mắc điển hình. Một là dự án "treo" vì chờ ý kiến phối hợp. Một doanh nghiệp muốn đầu tư dự án khu đô thị quy mô lớn, hồ sơ đã nộp đầy đủ theo hướng dẫn. Tuy nhiên, quá trình thẩm định kéo dài hàng năm trời do cơ quan chủ trì phải gửi văn bản xin ý kiến của rất nhiều sở, ngành liên quan, chỉ cần một trong các đơn vị này chậm trả lời, hoặc có ý kiến chưa thống nhất, hồ sơ sẽ bị "ngâm" lại. Có trường hợp, ý kiến của các sở, ngành lại mâu thuẫn nhau, khiến cơ quan chủ trì không thể tổng hợp để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Hai là thay đổi quy hoạch đột ngột. Nhà đầu tư đã được giới thiệu địa điểm, tiến hành các bước chuẩn bị, nghiên cứu khả thi, thậm chí đã có những chấp thuận sơ bộ. Tuy nhiên, trong quá trình xin chấp thuận chủ trương đầu tư, địa phương công bố điều chỉnh quy hoạch chung hoặc quy hoạch phân khu, khiến địa điểm dự kiến của dự án không còn phù hợp. Nhà đầu tư lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, chi phí đã bỏ ra có nguy cơ mất trắng.

Ba là yêu cầu bổ sung hồ sơ không rõ ràng, vượt quy định. Trong quá trình thẩm định, nhà đầu tư liên tục nhận được yêu cầu bổ sung, giải trình các tài liệu mà không được quy định rõ ràng trong văn bản pháp luật, hoặc mang tính chất "đánh đố", vượt quá phạm vi của giai đoạn chấp thuận chủ trương đầu tư, mỗi lần bổ sung lại mất thêm thời gian chờ đợi phản hồi.

Bốn là xung đột giữa quy hoạch ngành và quy hoạch địa phương. Một dự án năng lượng đã có trong quy hoạch phát triển ngành điện quốc gia, nhưng khi triển khai thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư tại địa phương lại vướng mắc do chưa được cập nhật hoặc không phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng của tỉnh.

Năm là "giấy phép con" không tên. Dù pháp luật không quy định, nhưng trong thực tế, để được chấp thuận chủ trương đầu tư, đôi khi nhà đầu tư phải có được những "đồng thuận" hoặc "chấp thuận sơ bộ" từ nhiều cấp, nhiều ngành mà không được thể hiện thành thủ tục chính thức, gây khó khăn và thiếu minh bạch.

Đơn giản hoá thủ tục như thế nào?

- Trong trường hợp cơ quan quản lý quyết định bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, theo bà, cơ chế nào sẽ thay thế được?

Luật sư Nguyễn Thị Thu: Nếu bỏ thủ tục này, nhà nước cần có những cơ chế thay thế hiệu quả để đảm bảo kiểm soát các dự án lớn, có tác động lớn đến kinh tế - xã hội, môi trường và quốc phòng - an ninh.

Đầu tiên, nhà nước phải nâng cao vai trò và chất lượng của quy hoạch.

Thứ hai là siết chặt và nâng cao hiệu quả của các công cụ pháp lý chuyên ngành bằng cách thực hiện nghiêm ngặt, độc lập, khách quan và có cơ chế giám sát sau đánh giá tác động hiệu quả. Đối với các dự án lớn, có nguy cơ tác động môi trường cao, đánh giá tác động môi trường (ĐTM) phải là một "cửa ải" thực sự.

Với khâu thẩm định thiết kế cơ sở, thiết kế kỹ thuật, cấp phép xây dựng, nhà nước phải đảm bảo các dự án tuân thủ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, an toàn công trình, phòng chống cháy nổ. Với pháp luật về đất đai, nhà nước phải kiểm soát chặt chẽ việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, đặc biệt đối với các dự án sử dụng nhiều đất hoặc đất ở các vị trí nhạy cảm. Về pháp luật về quốc phòng, an ninh, với các dự án có yếu tố liên quan đến quốc phòng, an ninh, nhà nước cần có cơ chế thẩm định chuyên biệt, chặt chẽ từ các cơ quan chức năng như Bộ Quốc phòng, Bộ Công an. Ngoài ra, với các giấy phép chuyên ngành khác phải tùy thuộc vào lĩnh vực đầu tư (ví dụ: khai khoáng, năng lượng, tài chính ngân hàng), các dự án phải đáp ứng đầy đủ điều kiện và được cấp phép theo quy định của pháp luật chuyên ngành.

Thứ ba là tăng cường giám sát, đánh giá và kiểm tra sau cấp phép. Theo đó, thay vì tập trung quá nhiều vào khâu “tiền kiểm”, nhà nước cần chuyển trọng tâm sang “hậu kiểm”; xây dựng cơ chế giám sát, kiểm tra, thanh tra định kỳ và đột xuất việc tuân thủ các cam kết, giấy phép, quy định pháp luật của chủ đầu tư trong quá trình triển khai và vận hành dự án. Đồng thời, nhà nước ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu dự án tập trung để theo dõi, giám sát; phát huy vai trò giám sát của cộng đồng dân cư, các tổ chức xã hội và truyền thông. Về chế tài, cần áp dụng các chế tài nghiêm khắc (bao gồm cả việc đình chỉ, thu hồi dự án) đối với các vi phạm.

Thứ tư là thiết lập các tiêu chí sàng lọc dự án rõ ràng, minh bạch và phân cấp mạnh mẽ bằng cách xây dựng bộ tiêu chí cụ thể để phân loại dự án. Đối với các dự án không thuộc nhóm có tác động lớn, rủi ro cao, nhà nước có thể đơn giản hóa thủ tục, thậm chí miễn một số bước không cần thiết. Đối với các dự án lớn, tiềm ẩn tác động đa chiều, nhà nước áp dụng quy trình thẩm định tích hợp, đa ngành dựa trên các tiêu chí đã được xác định trước, thay vì một "chấp thuận chủ trương" mang tính định tính. Quy trình này có thể bao gồm ý kiến bắt buộc từ các bộ ngành liên quan và địa phương.

Thứ năm là nâng cao trách nhiệm giải trình của cơ quan quản lý nhà nước và chủ đầu tư. Cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình trong việc cho phép dự án triển khai dựa trên các thẩm định chuyên ngành. Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm toàn diện về hiệu quả đầu tư, tác động của dự án và tuân thủ pháp luật.

Thứ sáu là tăng cường tham vấn công chúng và các bên liên quan. Đối với các dự án lớn, có tác động rộng, việc tham vấn ý kiến cộng đồng dân cư chịu ảnh hưởng, các chuyên gia, hiệp hội ngành nghề là cần thiết để đảm bảo tính khách quan, đồng thuận xã hội và giảm thiểu rủi ro.

Tóm lại, nếu bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, nhà nước cần một tổ hợp các giải pháp đồng bộ, tập trung vào việc nâng cao chất lượng quy hoạch, siết chặt các công cụ pháp lý chuyên ngành, tăng cường hậu kiểm và đề cao trách nhiệm của các bên. Mục tiêu cuối cùng là đảm bảo một môi trường đầu tư thông thoáng nhưng vẫn kiểm soát chặt chẽ các dự án lớn, đảm bảo sự phát triển bền vững về kinh tế - xã hội, môi trường và an ninh quốc phòng.

- Bà kỳ vọng và có góp ý gì với nỗ lực cải cách thể chế đầu tư sắp tới để Việt Nam có thể cạnh tranh hơn?

Luật sư Nguyễn Thị Thu: Thứ nhất, tôi kỳ vọng Việt Nam sẽ rút gọn, đơn giản hóa các thủ tục đầu tư, trong đó có việc xem xét bỏ hoặc thu hẹp phạm vi áp dụng chấp thuận chủ trương đầu tư, chỉ giữ lại cho một số trường hợp đặc biệt như: dự án có sử dụng đất rừng, đất lúa, hoặc đất đai công sản; dự án liên quan đến chuyển mục đích sử dụng đất quy mô lớn, hoặc tác động lớn đến môi trường, xã hội; dự án có yếu tố an ninh, quốc phòng hoặc nằm trong khu vực nhạy cảm về địa chính trị; dự án xin ưu đãi đặc biệt vượt khung pháp luật hiện hành, cần ý kiến từ cấp cao hơn.

Thứ hai, tôi cho rằng cần phân cấp, phân quyền mạnh mẽ hơn cho địa phương trong việc phê duyệt và triển khai dự án đầu tư, đồng thời đi kèm với cơ chế giám sát minh bạch, hậu kiểm hiệu quả. Điều này không chỉ giúp giảm tải cho các bộ, ngành trung ương mà còn tạo điều kiện để địa phương chủ động thu hút đầu tư một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tiễn và có thể bám sát hơn được với các dự án.

Thứ ba, thể chế đầu tư cần hướng tới mô hình “đăng ký – công khai – giám sát” thay vì “xin – cấp”. Việc đầu tư kinh doanh nên dựa trên nguyên tắc quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề pháp luật không cấm. Nhà nước chỉ quản lý rủi ro bằng công cụ hậu kiểm, thanh tra chuyên ngành hoặc quy chuẩn kỹ thuật, thay vì phê duyệt mang tính hành chính.

Cuối cùng, tôi kỳ vọng Việt Nam tiếp tục cải thiện môi trường pháp lý một cách đồng bộ, minh bạch và ổn định. Đầu tư là lĩnh vực cần sự dự báo dài hạn, nên bất kỳ thủ tục nào không rõ ràng, không nhất quán giữa các địa phương hay thường xuyên thay đổi sẽ gây tâm lý e ngại và ảnh hưởng lớn đến quyết định của nhà đầu tư.

Tôi cho rằng đây là thời điểm phù hợp để chúng ta mạnh dạn thực hiện cải cách thể chế đầu tư theo hướng hiện đại, minh bạch, tiếp cận chuẩn mực quốc tế. Nếu làm tốt, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành điểm đến hấp dẫn và ổn định cho dòng vốn đầu tư trong khu vực và toàn cầu.

Trân trọng cảm ơn bà!

Vân Trang
  • Facebook
  • Chia sẻ
  •   Lưu tin
  •   Báo cáo

    Báo cáo vi phạm
     
  • Bắc Ninh có thêm 3 cụm công nghiệp hơn 2.400 tỷ đồng

    Bắc Ninh có thêm 3 cụm công nghiệp hơn 2.400 tỷ đồng

    Bắc Ninh tiếp tục khẳng định vị thế “thủ phủ công nghiệp” phía Bắc khi vừa phê duyệt thành lập 3 cụm công nghiệp mới, tổng vốn đầu tư hơn 2.443 tỷ đồng, trải rộng tại các huyện Yên Phong, Tiên Du và thị xã Quế Võ....

  • Mỹ Tho rót hơn 1 tỷ USD phát triển đại đô thị mới phía Đông Bắc

    Mỹ Tho rót hơn 1 tỷ USD phát triển đại đô thị mới phía Đông Bắc

    UBND tỉnh Tiền Giang mời đầu tư dự án Khu đô thị Đông Bắc TP Mỹ Tho – siêu dự án có tổng vốn đầu tư hơn 26.000 tỷ đồng (tương đương trên 1 tỷ USD), trải rộng gần 185 ha với quy mô gần 10.000 dân....

  • Sơn La sắp có tuyến cao tốc 25.000 tỷ quy mô 4 làn xe

    Sơn La sắp có tuyến cao tốc 25.000 tỷ quy mô 4 làn xe

    Tuyến đường bộ cao tốc đoạn Mộc Châu – TP. Sơn La dài 105 km với tổng vốn đầu tư dự kiến lên tới 25.000 tỷ đồng đang được đề xuất xây dựng nhằm kết nối liên hoàn tuyến trục huyết mạch khu vực Tây Bắc, hoàn thiện tuyến cao tốc CT.03 từ Hà Nội đến Cửa ...

Mọi ý kiến đóng góp cũng như thắc mắc liên quan đến thị trường bất động sản xin gửi về địa chỉ email: [email protected]; Đường dây nóng: 0942.825.711.
CafeLand.vn là Network bất động sản hàng đầu tại Việt Nam và duy nhất chuyên về bất động sản. Cập nhật thực trạng thị trường bất động sản hiện nay, cung cấp cho các độc giả những thông tin chính xác và những góc nhìn phân tích nhận định về thị trường bất động sản từ các chuyên gia trong ngành. Ngoài ra, CafeLand còn cung cấp cho độc giả tất cả các thông tin về sự kiên, dự án, các xu hướng phong thủy, nhà ở để các bạn có cái nhìn tổng quan hơn về thông tin mua bán nhà đất tại Việt Nam.