21/08/2025 7:45 PM
Đại sứ Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Mỹ trao đổi về công tác ngoại giao trong Kỷ nguyên mới cũng như tính cấp thiết của Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

Đại sứ Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Mỹ. Ảnh: Hoàng Anh.

Đại sứ Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Mỹ trao đổi về công tác ngoại giao trong Kỷ nguyên mới cũng như tính cấp thiết của Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

Chứng kiến những thay đổi về tư duy đối ngoại và quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, thời điểm nào ông nhận ra rằng Việt Nam đã thực sự “bước ra thế giới”?

Đại sứ Phạm Quang Vinh: Việt Nam giành được độc lập, thống nhất vào năm 1975 nhưng bối cảnh vẫn rất khó khăn sau đó. Chúng ta chịu hậu quả chiến tranh nặng nề, bị bao vây, cấm vận bởi cả Mỹ và phương Tây, bên cạnh những sự kiện như chiến tranh biên giới phía Bắc, phía Tây Nam.

Trong nước, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng nặng nề. Là một nước nông nghiệp nhưng chúng ta còn không có đủ gạo mà ăn, lạm phát thì lên đến hơn 700% vào những năm 1980.

Trong bối cảnh ngặt nghèo đó, Đổi mới năm 1986 đã khởi đầu cho sự thay đổi mạnh mẽ về tư duy và phát triển đất nước. Chúng ta mở cửa cho phát triển kinh tế, nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần. Đó cũng chính là nền tảng quan trọng để Việt Nam đứng vững khi đầu thập niên 90, Việt Nam mất đi nguồn viện trợ khi Liên Xô tan rã.

Có lẽ ai cũng hiểu những thay đổi mang tính bước ngoặt về kinh tế từ đường lối Đổi mới. Tuy nhiên, bên cạnh kinh tế, Đổi mới cũng là dấu mốc đặc biệt về thay đổi tư duy đối ngoại. Không còn tư duy bạn - thù, chúng ta chuyển sang làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới, trên quan điểm vì lợi ích chung.

Với tư duy đó, Việt Nam chọn làm bạn, làm đối tác tin cậy với các nước và làm một thành viên có trách nhiệm với quốc tế, trên tinh thần giữ vững độc lập, tự chủ.

Qua đó, Việt Nam đã từng bước phá thế bao vây, cấm vận, mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài và buôn bán, giao thương với quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 194 quốc gia, hơn 200 nền kinh tế, có môi trường chiến lược thuận lợi với quan hệ chiến lược với tất cả các nước láng giềng và cả 5 thành viên Hội đồng bảo an Liên hợp quốc.

Tuy nhiên, để nói đâu là thời điểm Việt Nam thực sự “bước ra thế giới”, tôi sẽ chọn giai đoạn giữa những năm 1990, khi chúng ta đột phá về đối ngoại, phá vây và bình thường hóa quan hệ với khu vực và các nước lớn, cùng hai sự kiện đặc biệt quan trọng về hội nhập. Đầu tiên là Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Mỹ, quốc gia mà chúng ta đã từng coi là kẻ địch. Đó là nỗ lực rất lớn của chính phủ và nhân dân hai nước để từng bước hàn gắn vết thương chiến tranh, nối lại các trao đổi, đàm phán.

Việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ đã thực sự là bước ngoặt mang tính phá vây. Bởi, khi chúng ta bắt đầu “làm bạn” với Mỹ, tiếp nhận doanh nghiệp lớn của Mỹ đầu tư vào, Việt Nam mới hiển lộ những tiềm năng của mình cho thế giới, qua đó bắt đầu thiết lập quan hệ với các nước phương Tây.

Tiếp đó là Việt Nam gia nhập ASEAN, một sân chơi có luật riêng, mặt bằng thuế quan riêng. Đây là bước khởi đầu để chúng ta kinh doanh, giao thương theo luật chơi quốc tế chứ không phải chỉ sản xuất, buôn bán trong nước nữa.

Chuỗi sự kiện “bước ra thế giới” như bình thường hóa quan hệ với Mỹ, gia nhập ASEAN, rồi sau này là ký BTA với Mỹ, gia nhập WTO… dường như không chỉ mang ý nghĩa chính trị mà đã tác động rất lớn đến văn hóa kinh doanh của Việt Nam?

Đại sứ Phạm Quang Vinh: Điều này cần được nhìn nhận dưới hai khía cạnh.

Thứ nhất, bản thân việc hội nhập và tham gia các sân chơi chung quốc tế, ký kết các hiệp định tự do thương mại (FTA) phải dựa trên nền tảng là Việt Nam đã đổi mới và bắt kịp với thế giới về cả kinh tế lẫn chính trị đối ngoại.

Nói dễ hiểu, nếu như luật pháp không phù hợp với cuộc chơi thương mại thế giới, như về xuất xứ hay sở hữu trí tuệ thì làm sao ta tham gia được vào các FTA? Hay nếu nền kinh tế của chúng ta không đủ năng lực và còn yếu thì lấy cơ sở đâu để cam kết cắt giảm thuế quan?

Nếu không có những sân chơi quốc tế, doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn rất “bập bõm”. Ảnh: Hoàng Anh

Ở chiều ngược lại, việc hội nhập quốc tế với những dấu mốc như bạn vừa liệt kê đã tạo ra cho Việt Nam nhiều cơ hội. Nếu không có những sân chơi quốc tế đó, doanh nghiệp Việt Nam còn “bập bõm” lắm.

Bởi, khi hội nhập, doanh nghiệp không chỉ bán hàng trong nước mà còn xuất khẩu ra quốc tế. Chúng ta phải biết nước Mỹ cần hàng hóa thế nào, châu Âu có tiêu chuẩn gì hay Nhật Bản, Hàn Quốc đòi hỏi chất lượng ra sao. Những sự “biết” đó là cơ sở để doanh nghiệp điều chỉnh tiêu chuẩn sản xuất trong nước.

Nhưng đáp ứng thôi chưa đủ. Còn phải cạnh tranh, cạnh tranh rất khốc liệt. Làm sao để cạnh tranh? Bằng chất lượng, giá cả và cả dịch vụ hậu mãi, đòi hỏi doanh nghiệp không ngừng gia tăng năng lực.

Rồi luật chơi không ngừng thay đổi, với các tiêu chuẩn mới về vệ sinh an toàn thực phẩm, hay những tiêu chí riêng của mỗi thị trường, đơn cử như EU hiện đã coi giảm phát thải, chống phá rừng là một phần của nội hàm trong hàng hóa lưu hành trên thị trường.

Doanh nghiệp Việt phải nắm bắt cái đó, phải đáp ứng mà vẫn đảm bảo cạnh tranh. Có thể nói, với cả cơ hội và sức ép, doanh nghiệp của chúng ta giờ đây đã thông thạo hơn rất nhiều, về cả câu chuyện ý thức kinh doanh hay quản trị doanh nghiệp.

Như ông nói, việc mở cửa thị trường, hội nhập sâu rộng về kinh tế và ký kết các FTA gây ra áp lực cạnh tranh rất lớn cho cộng đồng doanh nghiệp. Làm thế nào để doanh nghiệp Việt có thể đứng vững, cạnh tranh sòng phẳng với đối thủ quốc tế trong bối cảnh mở cửa sâu rộng, thưa ông?

Đại sứ Phạm Quang Vinh: Một điểm đáng chú ý, bên cạnh không ngừng mở rộng hội nhập, chúng ta còn hội nhập sâu hơn với việc ký kết các FTA thế hệ mới, chất lượng cao như EVFTA, CPTPP hay RCEP.

Các FTA mở ra thị trường rộng lớn cho doanh nghiệp Việt Nam nhưng sức ép cạnh tranh, như đã nói, cũng rất lớn. Làm thế nào để doanh nghiệp Việt đứng vững trong môi trường hội nhập?

Theo tôi, có một số điểm như sau.

Thứ nhất, củng cố và phát huy nội lực của nền kinh tế cũng như của cộng đồng doanh nghiệp. Có nội lực mạnh, có sức cạnh tranh thì doanh nghiệp mới tận dụng được cơ hội hợp tác, xuất khẩu, nếu không thì sẽ bỏ lỡ cơ hội thị trường.

Thứ hai, phải chủ động, tích cực hội nhập để trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong một thế giới phụ thuộc rất nhiều vào toàn cầu hóa, vào chuỗi cung ứng toàn cầu, làm được điều này sẽ tạo ra sự cộng hưởng rất lớn về lợi ích.

Thứ ba, khi đã tham gia vào các FTA thế hệ mới, năng lực của doanh nghiệp, nền kinh tế và cả quyết tâm chính trị cũng phải định hướng làm sao cho Việt Nam tham gia được sân chơi cao cấp hơn, bước vào phân khúc cao hơn của chuỗi giá trị.

Bước vào kỷ nguyên mới, Việt Nam đã xác định thu hút FDI một cách chọn lọc hơn, tập trung thu hút đầu tư, hợp tác kinh tế ở những lĩnh vực trọng điểm như khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh.

Để làm được điều này, tư duy chính sách đối ngoại và hội nhập là rất quan trọng trong việc tạo ra các mối quan hệ chính trị, đối ngoại đan xen về lợi ích. Tức là chúng ta muốn có lợi ở phân khúc cao hơn thì chúng ta cũng phải thiết lập cơ chế làm sao để đối tác cũng có lợi ích hài hòa.

Tất nhiên, muốn tạo được thế cân bằng về lợi ích như vậy thì ngoài quyết tâm chính trị, nội lực của nền kinh tế và của doanh nghiệp, như tôi nhắc đến ban đầu, cũng rất quan trọng.

Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới của Bộ Chính trị được xem là một trong “bộ tứ chính sách”đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Với những vấn đề đặt ra cho đối ngoại và hội nhập, ông đánh giá thế nào về sự ra đời của nghị quyết này?

Đại sứ Phạm Quang Vinh: Để phân tích về Nghị quyết 59, cần đặt quyết sách này vào trong bối cảnh của đất nước.

Đầu tiên phải kể đến là nền tảng của đất nước sau gần 40 năm Đổi mới. Quá trình gần 40 năm đó đã tạo cho Việt Nam một vị thế mới. Từ quốc gia nghèo nàn, lạc hậu, bước ra từ cuộc chiến với những vết thương khó hàn gắn, đến nay Việt Nam đã vươn lên trở thành quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, GDP lọt top 35 toàn cầu, độ mở nền kinh tế cũng lọt vào top 20.

Những thành tựu đó là nền tảng để Việt Nam hội nhập chính trị, đối ngoại và kinh tế ở tầm cao hơn.

Tiếp theo, như Tổng bí thư Tô Lâm nói, Việt Nam đang bước vào Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Chúng ta có nhiều nhiệm vụ cấp thiết để hướng đến mục tiêu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Đây cũng là mục tiêu tổng quát được Nghị quyết 59 hướng đến.

Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, hội nhập giờ phải bắt kịp tầm nhìn của kỷ nguyên mới, cũng gắn kết chặt chẽ trong triển khai bộ tứ nghị quyết trụ cột. Để đạt được điều này, công tác chính trị đối ngoại Việt Nam cần phải tạo ra môi trường thuận lợi nhất phục vụ cho phát triển. Các mục tiêu cụ thể của Nghị quyết 59 đã làm sâu sắc cách chúng ta sử dụng hội nhập phục vụ cho phát triển.

Đầu tiên là hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng bám sát nhu cầu phát triển và tranh thủ được các động lực tăng trưởng mới. Không chỉ mở rộng thị trường, Việt Nam cần gia tăng hàm lượng khoa học công nghệ, phát triển bền vững, nâng cao năng suất, xây dựng thương hiệu để có vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng toàn cầu.

Thứ hai, sự phát triển đòi hỏi một nền tảng ổn định, do đó hội nhập cần thực hiện nhiệm vụ giữ vững môi trường hòa bình và cục diện đối ngoại thuận lợi. Muốn đạt được điều này, ta phải củng cố và gia tăng sự đan xen lợi ích nhằm phòng ngừa chiến tranh, xung đột, hóa giải nghi kỵ, bất đồng, gia tăng tin cậy để mở đường cho hợp tác ở nhiều lĩnh vực nâng cao năng lực quốc gia.

Thứ ba, hội nhập về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, văn hóa, xã hội, môi trường, giáo dục đào tạo, y tế và nhiều lĩnh vực khác. Đây là nhiệm vụ để nâng cao chất lượng hội nhập, giúp Việt Nam tranh thủ được những động lực tăng trưởng mới, không chỉ dừng lại ở mở rộng thị trường.

Việt Nam cần tham gia kiến tạo cục diện của thế giới mới dựa trên luật pháp quốc tế, tinh thần tôn trọng độc lập, chủ quyền, quyền bình đẳng và xử lý tranh chấp dựa trên đối thoại và hòa bình.

Đại sứ Phạm Quang Vinh

Cuối cùng, thế giới đang thay đổi, biến chuyển một cách sâu sắc và đang đến “ngưỡng” định hình một thế giới mới. Việt Nam cần tham gia kiến tạo cục diện của thế giới mới dựa trên luật pháp quốc tế, tinh thần tôn trọng độc lập, chủ quyền, quyền bình đẳng và xử lý tranh chấp dựa trên đối thoại và hòa bình.

Nói chung, đối ngoại bao gồm bốn mục tiêu: giữ vững hòa bình, hỗ trợ cho phát triển, nâng cao vị thế quốc gia và đóng góp vào những khuôn khổ hợp tác chung của quốc tế. Khi ta bước vào Kỷ nguyên mới, Nghị quyết 59 ra đời nhằm đáp ứng sự thay đổi kịp thời về tư duy, hướng đến chất lượng cao hơn, làm sâu sắc hơn các mối quan hệ quốc tế.

Nghị quyết 59 có nhiều điểm nhấn về phục vụ phát triển, đặc biệt là việc phải nâng cao năng lực nội sinh. Đâu là những yếu tố cần thiết để hiện thực hóa những nội dung này, thưa ông?

Đại sứ Phạm Quang Vinh: Năng lực nội sinh là yếu tố quyết định sự thành công của hội nhập kinh tế. Nếu như ngày xưa, chúng ta nâng cao năng lực để tránh những “cơn gió ngược” thì hiện nay, năng lực nội sinh là mấu chốt để tranh thủ lợi ích ở tầm cao hơn, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và tìm kiếm chỗ đứng trong thế giới mới.

Ở đây có hai câu chuyện. Thứ nhất, nói nâng cao năng lực nội sinh cũng là một doanh nghiệp phải tự nâng mình lên. Tự nâng cao năng lực thì doanh nghiệp mới có chỗ đứng trong nền kinh tế vốn đang trên đà phát triển và tìm kiếm cơ hội từ hội nhập quốc tế.

Còn ở góc độ quốc gia. Nghị quyết 59 cùng với Nghị quyết 57-NQ/TW năm 2024 về Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Nghị quyết 66-NQ/TW năm 2025 về Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết 68-NQ/TW năm 2025 về Phát triển kinh tế tư nhân là bộ tứ trụ cột đưa Việt Nam tiến vào Kỷ nguyên mới.

Bốn nghị quyết này bổ sung, tương hỗ lẫn nhau và cũng là chìa khóa để nâng cao năng lực nội sinh. Ở đây, tôi phân tích trên khía cạnh hội nhập quốc tế phục vụ cho phát triển kinh tế.

Về phát triển kinh tế tư nhân thì gắn liền với câu chuyện doanh nghiệp nâng cao năng lực nội sinh để tìm kiếm cơ hội và nâng tầm năng lực cạnh tranh.

Phát triển khoa học công nghệ cũng là con đường hướng đến mục tiêu này. Hai năm qua, thế giới chứng kiến những bước đột phá về công nghệ với các sản phẩm về trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn.

Doanh nghiệp có thể tận dụng được những đột phá về công nghệ, chẳng hạn áp dụng trí tuệ nhân tạo và quản trị là tạo ra sự khác biệt lớn, nâng tầm doanh nghiệp lên rồi. Hay câu chuyện cắt giảm khí thải để đáp ứng tiêu chuẩn thị trường. Nếu sở hữu và làm chủ công nghệ, chi phi rẻ đi nhiều nhưng lại đạt được hiệu quả cao.

Ngược lại, không có khoa học công nghệ thì doanh nghiệp sẽ tụt hậu, không bắt kịp được với thế giới, cũng chẳng thể “mơ” đến gia nhập phân khúc cao của chuỗi cung ứng toàn cầu.

Rồi câu chuyện thể chế, chính sách. Chúng ta mời gọi đầu tư với hàng loạt ưu đãi nhưng có ai muốn đầu tư nếu hôm nay xin giấy phép mà năm sau mới làm xong thủ tục?

Nhà đầu tư quốc tế quan tâm đến Việt Nam nhưng có thể chuyển hướng sang quốc gia khác, các thành viên của ASEAN chẳng hạn. Cơ hội đến nhanh nhưng cũng có thể đi rất nhanh nếu không biết chủ động nắm lấy.

Phân tích dưới góc độ đó thôi cũng thấy bộ tứ trụ cột chính sách đặt với nhau một cách rất sáng suốt và tạo ra nền tảng quan trọng về tư duy để đưa Việt Nam tiến vào Kỷ nguyên mới.

Chúng ta lựa chọn chủ động hội nhập để tìm kiếm lợi ích và cơ hội phát triển. Tuy nhiên, thế giới ngày nay quá biến động, với những cuộc xung đột vũ trang, căng thẳng địa chính trị leo thang và cả những quyết sách theo chủ nghĩa bảo hộ của các nước lớn. Để chủ động được trong bối cảnh biến động, đâu là điều Việt Nam cần lưu ý?

Đại sứ Phạm Quang Vinh: Đúng là chúng ta đang trong một bối cảnh toàn cầu chứa đựng rất nhiều rủi ro như đứt gãy chuỗi cung ứng, chiến tranh hay câu chuyện cạnh tranh nước lớn. Điều này gây ra nguy cơ phân mảnh nền kinh tế thế giới và đẩy nhiều quốc gia vào những lựa chọn khó khăn.

Trong bối cảnh đó, để tránh tác động tiêu cực, hướng đến mục tiêu phát triển, cần phải lưu ý một số điểm.

Thứ nhất, duy trì được chuỗi cung ứng với bạn hàng và đối tác chủ chốt. Không chỉ xây dựng sự đan xen lợi ích, chúng ta còn phải tuân thủ những tiêu chuẩn mới. Chẳng hạn, EU đã đưa giảm phát thải trở thành một phần nội hàm của hàng hóa nhập khẩu, doanh nghiệp bắt buộc phải tuân theo nếu muốn giữ thị trường.

Thứ hai, đa dạng hóa thị trường thông qua tranh thủ hiệu quả hơn các FTA. Chúng ta có hơn 60 đối tác trong 17 FTA đang hiệu lực. Nếu khai thác hiệu quả được cả 60 đối tác này, doanh nghiệp sẽ được giảm bớt những cú sốc đến từ bất ổn toàn cầu, tiêu biểu như cú sốc về thuế đối ứng của Mỹ.

Thứ ba, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, vừa là nâng cao năng lực cạnh tranh, vừa là cơ hội mở ra những lĩnh vực hợp tác mới.

Nghị quyết 59 có nhắc đến người dân và doanh nghiệp là trung tâm của hội nhập quốc tế. Thực tế, không chỉ cán bộ nhà nước mà doanh nhân cũng là người làm công tác đối ngoại. Vậy làm thế nào để doanh nhân tận dụng được cơ hội mở ra từ Nghị quyết 59 cũng như những thành tựu và tầm nhìn của công tác đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế?

Đại sứ Phạm Quang Vinh: Doanh nhân phải tạo ra hợp đồng, thiết lập quan hệ hợp tác cụ thể để đầu tư, mua bán, qua đó tìm kiếm lợi ích. Bản chất của doanh nhân là như vậy và hội nhập cũng là để họ tìm kiếm lợi ích, đóng góp vào sự phát triển của đất nước.

Vì vậy, trước tiên, người doanh nhân phải biết thị trường, biết năng lực của mình đến đâu, lợi thế ra sao, cách thức chào hàng như thế nào. Doanh nhân cần chủ động những điều này.

Thực tế, công tác đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế không thể nói chung chung về khuôn khổ ra sao, tầm nhìn thế nào mà phải đi vào cụ thể từng ngành, từng lĩnh vực. Ví dụ, muốn hợp tác về xây dựng, về bán dẫn, trí tuệ nhân tạo thì ở đây cụ thể hợp tác thế nào, ai tham gia, lợi ích ra sao.

Vì thế, công tác đối ngoại phục vụ kinh tế bắt buộc phải dựa vào doanh nhân. Họ đóng vai trò phát hiện cơ hội để hợp tác và thông tin đến những chính khách, cán bộ ngoại giao để được hỗ trợ tiếp cận, kết nối.

Tôi lấy ví dụ như vừa qua Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, trong chuyến công du sang Brazil, đã đề nghị hợp tác, hỗ trợ Brazil làm căn cước công dân kỹ thuật số.

Trong câu chuyện này, chắc chắn doanh nghiệp là người chủ động phát hiện ra rằng Brazil chưa làm căn cước công dân số, thấy được cơ hội thị trường, cân nhắc năng lực của mình trong việc khai thác tiềm năng thị trường và đề xuất Chính phủ kết nối. Mà khi chính khách hỗ trợ việc kết nối thì độ lan tỏa lớn lắm, cơ hội rộng mở hơn.

Tổng kết lại, trong công tác đối ngoại, người doanh nhân phải biết chính mình, biết thế giới, biết thị trường, biết luật chơi và khả năng hợp tác. Từ đó, doanh nhân phối hợp với cơ quan ngoại giao để đi nhanh hơn, tìm đúng đối tác, gặp được bạn hàng và có được kết nối thuận lợi, bền vững.

Xin chân thành cảm ơn ông!

Chủ đề: Kinh tế Việt Nam
Phạm Sơn
  • Facebook
  • Chia sẻ
  •   Lưu tin
  •   Báo cáo

    Báo cáo vi phạm
     
  • Việt Nam - Australia sớm đạt mục tiêu kim ngạch 20 tỷ USD

    Việt Nam - Australia sớm đạt mục tiêu kim ngạch 20 tỷ USD

    Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam - Australia đang bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ, với kim ngạch thương mại hai chiều năm 2024 đạt hơn 14 tỷ USD. Trong cuộc hội đàm chiều 20/8 tại Hà Nội, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Bộ trưởng Ngoạ...

  • Kinh tế tư nhân và những rào cản trên đường phát triển

    Kinh tế tư nhân và những rào cản trên đường phát triển

    Sau gần 40 năm Đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân đã khẳng định vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, GS.TS. Ngô Thắng Lợi (Đại học Kinh tế Quốc dân) cho rằng, để hiện thực hóa mục tiêu trở th...

  • Quốc vương Bhutan mong muốn học hỏi kinh nghiệm quản trị của Việt Nam

    Quốc vương Bhutan mong muốn học hỏi kinh nghiệm quản trị của Việt Nam

    Sáng 19/8, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Lương Cường đã chủ trì lễ đón và hội đàm với Quốc vương Bhutan Jigme Khesar Namgyel Wangchuck trong khuôn khổ chuyến thăm cấp Nhà nước lần đầu tiên của nguyên thủ Bhutan đến Việt Nam....

Mọi ý kiến đóng góp cũng như thắc mắc liên quan đến thị trường bất động sản xin gửi về địa chỉ email: [email protected]; Đường dây nóng: 0942.825.711.
CafeLand.vn là Network bất động sản hàng đầu tại Việt Nam và duy nhất chuyên về bất động sản. Cập nhật thực trạng thị trường bất động sản hiện nay, cung cấp cho các độc giả những thông tin chính xác và những góc nhìn phân tích nhận định về thị trường bất động sản từ các chuyên gia trong ngành. Ngoài ra, CafeLand còn cung cấp cho độc giả tất cả các thông tin về sự kiên, dự án, các xu hướng phong thủy, nhà ở để các bạn có cái nhìn tổng quan hơn về thông tin mua bán nhà đất tại Việt Nam.