Kho ngoại quan Baird & Co tọa lạc giữa
quang cảnh buồn tẻ của một khu công nghiệp cách sân bay thành phố
London, Anh, nửa dặm về phía Đông. Một chiếc Mercedes màu đen và một
chiếc Jaguar xanh nước biển đậu gần cửa vào kho ngoại quan là những điểm
sáng duy nhất ở nơi này. Bên trong kho ngoại quan, từng tốp công nhân
mặc đồ bảo hộ lao động đang vào khuân các loại tiền vàng, vàng thỏi và
nhẫn vàng từ vàng đã được tinh luyện và nấu chảy.
Trong văn phòng thuộc tầng trên của kho ngoại
quan, Giám đốc điều hành công ty, ông Tony Baird, trước đây từng là một
nhà giao dịch tiền xu vàng, chẳng ngại những tiếng ồn ã phát ra từ công
xưởng bên dưới. “Vàng là loại tài sản ổn định. Giá trị của tiền thì lúc
nào cũng lên xuống”, Baird nói. Công ty Baird & Co của ông cung cấp
vàng cho mọi đối tượng, từ các quỹ lương hưu tới các hãng chế tác nữ
trang.
Vị giám đốc điều hành này cho biết: “Máy móc của chúng tôi những ngày này hoạt động không đủ đáp ứng nhu cầu”.
Nhu cầu vàng trên thế giới đã gia tăng từ
tháng 9/2008, khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu leo thang
và tấn công mạnh vào các thị trường sau sự sụp đổ của ngân hàng đầu tư
Lehman Brothers. Giới đầu tư có lẽ đã mất niềm tin vào tiền giấy, nhưng
đến tháng 6 năm nay, đã có một lượng vốn trị giá 81,6 tỷ USD được đưa
vào các quỹ tín thác (ETF) đầu tư vàng, cao gấp 8 lần so với giá trị của
các quỹ này vào tháng 3/2006.
Cùng với đó, nhà máy tinh luyện vàng Rand ở
Nam Phi, nơi sản xuất đồng xu vàng phổ biến nhất trên thế giới - đồng
Krugerrand - phải tăng công suất để đáp ứng nhu cầu. Tháng 5 vừa qua,
nhà máy đúc tiền Austrian Mint của Áo đã bán được số đồng xu vàng hiệu
Vienna Philharmonic với tổng khối lượng 238.000 oz vàng, tăng gấp 6 lần
so với cùng kỳ năm trước.
Nhiều nhà đầu tư tỏ ra chẳng mấy tin vào vàng.
Họ cho rằng, giá vàng đang quá đắt và có thể giảm giá mạnh nếu các quỹ
đầu cơ và các nhà quản lý tài sản với khối lượng vàng nắm giữ lớn nhất
trên thị trường tiến hành xả hàng. “Người ta đã thổi phồng quá nhiều về
vàng, chủ yếu vì quan niệm cho rằng vàng là một ‘vịnh tránh bão’. Trong
khi đó, vàng chẳng đem lại thu nhập gì, giá lại quá cao và chỉ phụ thuộc
vào cung-cầu. Chúng tôi có cảm giác e sợ khi đầu tư vào bất kỳ loại tài
sản nào mà giá đã tăng quá mạnh”, ông Patrick Connolly, một chuyên gia
tư vấn thuộc công ty AWD Chase de Vere ở London, Anh, nhận xét.
Tuy nhiên, những nhà đầu tư trung thành với
vàng thì cho rằng, vàng đem đến cho họ một rào cản để chống lại cả lạm
phát lẫn giảm phát, đồng thời là một kênh lưu giữ giá trị khi thị trường
cổ phiếu và trái phiếu xuống dốc. Mức độ thích thú của những nhà đầu tư
này với vàng rất đa dạng, từ thái độ tin tưởng ở khả năng tăng giá tốt
hơn của vàng so với những kênh đầu tư khác khi xảy ra suy giảm tăng
trưởng, tới sự ngưỡng mộ cuồng nhiệt đối với kim loại quý này.
Có một điều mà những nhà đầu tư ham thích vàng
không chịu chấp nhận, đó là quan điểm cho rằng vàng đang quá đắt. Họ
cho rằng, trên thực tế, giá vàng lẽ ra còn có thể cao hơn nhiều, nếu
không chịu sự thao túng của các ngân hàng trung ương và các ngân hàng
chuyên về vàng vốn là đại diện cho các chính phủ trong hoạt động giao
dịch vàng.
“Họ chặn đà tiến của giá vàng như vậy chẳng
khác gì một vụ bê bối. Đó sẽ là một vụ bê bối cực lớn nếu bị phanh
phui”, ông Bill Murphy, người sáng lập Ủy ban Hành động chống độc quyền
vàng (GATA) phát biểu. Từ năm 1999, GATA - một trong nhiều tổ chức của
những nhà đầu tư trung thành với việc thúc đẩy lý thuyết về sự gian lận
giá vàng - đã tìm cách vén bức màn trên thị trường vàng.
”Vàng là một chiếc nhiệt kế cho nền kinh tế.
Giá vàng tăng sẽ gây bất lợi cho các ngân hàng, cho Phố Wall và các
chính trị gia. Do đó, để đảm bảo lợi ích, họ tìm cách ghìm giá vàng”,
ông Murphy nói. Chuyên gia này luôn giữ quan điểm cho rằng, giá vàng sẽ
tăng do sự bất ổn của nền kinh tế thế giới và thị trường.
Theo ông Murphy, từ năm 1955 tới nay, chưa
có một báo cáo kiểm toán độc lập nào về dự trữ vàng của nước Mỹ. “Có ai
thấy điều này đáng ngờ không?”, ông đặt câu hỏi.
Ông Murphy không phải là người duy nhất kêu
gọi kiểm toán độc lập dự trữ vàng của các ngân hàng trung ương và Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF). Từ năm 1982 tới nay, ông Ron Paul, một nghị sỹ
Cộng hòa của Mỹ, đã liên tục đề nghị kiểm toán dự trữ vàng của Mỹ. Trước
đây, ông Paul từng làm việc cho Ủy ban Vàng của Mỹ - cơ quan được thiết
lập nhằm xác định vai trò của vàng trong hệ thống tiền tệ.
“Vào đầu thập niên 1980, nước Mỹ phải đương
đầu với khủng hoảng tài chính và lạm phát cao. Nhưng Cục Dự trữ Liên
bang (FED) không quan tâm tới đề xuất của tôi. Ngay ở thời điểm đỉnh cao
của cuộc khủng hoảng và giá vàng lên tới hơn 800 USD/oz, Chủ tịch FED
khi đó là Paul Volcker còn nói: ‘Giá vàng thì là cái gì chứ?’ Ai cũng
thừa hiểu, giá vàng cao thể hiện sự mất niềm tin vào tiền giấy. Đó là lý
do tại sao các chính phủ sẽ phải thao túng giá vàng và tìm cách tạo ra
một mức giá giả tạo cho vàng’, ông Paul nhớ lại.
Trong cuốn sách tựa đề “Gold, Peace and
Prosperity” (tạm dịch: “Vàng, hòa bình và thịnh vượng”), ông Paul đã chỉ
trích việc chấm dứt chế độ bản vị vàng - hệ thống trong đó tiền giấy
được bảo đảm bằng một khối lượng vàng nhất định. Tổng thống Mỹ Nixon là
người đã chấm dứt chế độ bản vị vàng vào năm 1971 nhằm nỗ lực vượt qua
những áp lực về ngân sách cho cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam và thâm
hụt thương mại gia tăng của nước này.
Ông Paul cho rằng, hệ thống tiền giấy không có
bảo đảm bằng vàng “cho phép các chính phủ có khả năng tạo lạm phát,
kiểm soát nền kinh tế, chi tiêu bừa bãi và tiến hành chiến tranh không
cần nhiều cân nhắc”. Ông lo ngại rằng, cả nguồn cung tiền giấy và mức nợ
công của các chính phủ hiện nay đang vượt ra ngoài tầm kiểm soát.
Nhiều nhà phân tích đã phản đối ý tưởng của ông Paul về chế độ bản vị vàng. “Vấn đề cơ bản đối với chế độ bản vị vàng là sự biến động về cung-cầu vàng sẽ khiến giá cả trong mọi lĩnh vực khác bất ổn. Ưu điểm nổi trội duy nhất của chế độ này là vàng đem đến một điểm neo tốt hơn cho sự ổn định dài hạn của giá cả”, ông Ken Rogoff, Giáo sư Đại học Havard từng phục vụ trong bộ phận nghiên cứu của IMF, nói.
Tuy vậy, ngay cả ông Rogoff cũng tin rằng,
thế giới đang chứng kiến các dòng vốn tìm đến với vàng. Dự trữ vàng từ
lâu vẫn là một thước đo về sự giàu có, và sự dịch chuyển vị trí các kho
dự trữ vàng lớn nhất thế giới là một bằng chứng về “cuộc chiến” căng
thẳng giữa một bên là Mỹ và châu Âu, một bên là Trung Quốc và Ấn Độ.
Theo dữ liệu của Hội đồng Vàng Thế giới (WGC),
nước Mỹ vẫn là quốc gia sở hữu nhiều vàng nhất, với 8.133,5 tấn vàng,
chiếm khoảng 70% dự trữ ngoại hối của nước này. Tiếp đó là Đức với 3.047
tấn vàng, IMF với 3.000 tấn vàng, Italy với 2.452,8 tấn vàng, và Pháp
với 2.435,4 tấn vàng. Sau khi đẩy mạnh mua vàng vào năm ngoái, Nga hiện
có 668 tấn vàng, trong khi nước Anh chỉ có 310 tấn, Ngân hàng Trung ương
châu Âu (ECB) có 501 tấn.
Tuy vậy, từ năm 2003 tới nay, nước này đã nâng dự trữ vàng từ mức 400 tấn lên ít nhất 1.054 tấn bằng cách âm thầm gom mua từ các mỏ vàng trong nước và đã có những động thái để mở cửa rộng hơn thị trường vàng nội địa. Mới đây, Trung Quốc đã tăng số ngân hàng được phép giao dịch vàng quốc tế và công bố các biện pháp khuyến khích phát triển các sản phẩm đầu tư liên quan đến vàng.
Những thay đổi này diễn ra trong bối cảnh các nhà đầu tư của Trung Quốc tiếp tục bỏ những khoản tiền kỷ lục để mua vàng. Năm ngoái, các nhà đầu tư Trung Quốc đã mua 73 tấn vàng, tăng mạnh so với mức 18 tấn vào năm 2007.
Những quốc gia khác cũng có thể sẽ tăng mua vàng. Theo Giáo sư Rogoff, “nhiều khả năng, ngân hàng trung ương ở các nền kinh tế mới nổi sẽ muốn nâng tỷ lệ vàng trong dự trữ ngoại hối, đưa tỷ lệ này lên mức ngang bằng với mức ở các nước phát triển”. Theo lý giải của vị giáo sư này, điều này một phần xuất phát từ thực tế là, xu hướng dịch chuyển khỏi sự phụ thuộc thái quá vào đồng USD sang những đồng tiền khác như USD “không đủ để phòng ngừa rủi ro về khả năng - dù thấp nhưng không thể loại trừ - về khả năng leo thang của lạm phát trên phạm vi toàn cầu”.
Không chỉ các ngân hàng trung ương muốn mua vàng. Các ông chủ ngân hàng tư nhân cũng tham gia vào cuộc đua này. Adam Fleming là một ví dụ. Là cháu trai của Ian Fleming - người sáng tạo nên nhân vật huyền thoại James Bond - Adam Fleming đồng thời cũng là một nhà đầu tư say mê với vàng, từng có thời làm Chủ tịch hãng khai mỏ vàng lớn thứ 5 thế giới Harmony Gold Mining. Một trong số những nhà băng thuộc sở hữu của nhà Fleming đã được bán năm 2000 với giá 7,75 tỷ USD. Hiện gia đình này hiện vẫn còn trong tay một ngân hàng tư nhân và nhiều cơ sở làm ăn ở miền Nam châu Phi.
Trong cuộc trò chuyện với phóng viên Financial Times, ông Adam Fleming nói: “Vàng là ADN của tiền bạc. Khi tiền giấy mất giá, chỉ có các kim loại quý là còn giá trị”. Ông tin là vàng đã bắt đầu khẳng định lại vị trí của mình trên phương diện một đồng tiền thực sự. “Khối lượng tiền giấy đã đạt tới ngưỡng chưa từng thấy trước đây bao giờ. Tôi cảm thấy lo lắng cho thị trường tài chính”, ông phát biểu.
Có sự thao túng của các chính phủ?
Ông chỉ trích quyết định của cựu Bộ trưởng Bộ Tài chính Anh Gordon Brown khi còn đương chức vào năm 1999 đã bán hơn 400 tấn vàng, tương đương khoảng một nửa dự trữ vàng của Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) trong một loạt các cuộc đấu giá, để rồi mua vào ngoại tệ. Động thái đó đã gây nhiều tranh cãi, vì khi đó giá vàng chỉ ở mức bình quân 275 USD/oz, và đã vấp phải sự phản đối không hề nhỏ từ BoE. “Đó là một sai lầm thiếu khôn ngoan tới mức gây bất ngờ”, ông Fleming nói.
Theo ông Fleming, việc các chính phủ thao túng thị trường vàng đã không còn là chuyện mới. Ông lập luận rằng, điều này đã xảy ra từ giữa thập niên 1930, khi Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt cấm việc sở hữu vàng cá nhân, ngoại trừ vàng nữ trang. Đồng tình với lý thuyết của tổ chức GATA cho rằng các ngân hàng trung ương tới giờ vẫn che đậy hoạt động thao túng thị trường vàng, ông Fleming nhận định, không chỉ có vàng mà tất cả các đồng tiền cũng thường xuyên bị thao túng bởi các nhà hoạch định chính sách tiền tệ.
Nhìn lại, rõ ràng là quyết định của ông Gordon Brown bán ra một lượng lớn như vậy trong dự trữ vàng của nước Anh ở một mức giá thấp như vậy là một quyết định có sự tư vấn tồi. Tuy nhiên, mục đích chính thức của việc bán vàng này được công bố khi đó là tăng tỷ lệ nắm giữ các loại ngoại tệ và tài sản khác phục vụ lợi ích của nước Anh.
Một báo cáo về vụ bán vàng này do Văn phòng Kiểm toán Quốc gia Anh vào tháng 1/2001 kết luận, đợt bán vàng “được thực hiện theo quan điểm về biện pháp tốt nhất ở thời điểm đó”, đồng thời nhấn mạnh, các ngân hàng trung ương ở Canada, Hà Lan, Thụy Sỹ và Malaysia khi đó cũng mạnh tay bán vàng ra.
Nhiều nhà kinh tế học cũng không đồng tình với quan điểm của GATA cho rằng, những nỗ lực thao túng thị trường đang cản trở sự tăng giá của vàng. “Thị trường vàng là một thị trường lớn và không nằm trong biên giới của quốc gia nào. Làm sao có thể có chuyện giá vàng bị thao túng mà vẫn tăng tới mức như vậy trong thập kỷ qua”, ông Jeffrey Nichols, Giám đốc điều hành công ty tư vấn American Precious Metals Advisers ở New York Mỹ, phát biểu.
Ông Martin Munrenbeeld, chuyên gia kinh tế trưởng của công ty Dundee Wealth Economics ở Canada, thì cho rằng: “Nhiều người đã thổi phồng về tầm quan trọng của vàng, khi tin là FED và Tổng thống Mỹ phải thao túng giá vàng”.
Dù đúng hay không đúng, những lời đồn đoán về việc các chính phủ thao túng giá vàng càng khiến kim loại này thêm phần huyền bí. Thậm chí, những người phủ nhận quan điểm này cũng cho rằng, quy luật cung-cầu có thể đẩy giá vàng lên cao nữa trong tương lai. Sản lượng vàng của các hãng khai mỏ ở Nam Phi, Australia, Trung Quốc và miền Tây nước Mỹ đang giảm xuống. Trong khi đó, các ngân hàng trung ương, các quỹ lương hưu và các nhà đầu tư cá nhân ngày càng tìm đến nhiều hơn với các bàn giao dịch vàng.
Ngoài ra, sự leo thang của giá vàng còn xảy ra đồng thời với sự bất mãn của công chúng trước việc các chính phủ không thể giải quyết những khó khăn của đất nước. Những báo cáo kinh tế đáng ngại vẫn đang phát đi từ nhiều nền kinh tế trên thế giới. Thâm hụt ngân sách, nợ công cao phổ biến khắp châu Âu. Tại Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp đang cao ngất ngưởng, và Chủ tịch FED Ben Bernanke cho rằng, ngân sách liên bang đang trong tình trạng “không bền vững”. Nhiều nhà phân tích đang lo ngại rằng, kinh tế thế giới có thể rơi vào suy thoái kép.
Với tình hình như thế, không có gì là ngạc nhiên khi thế giới quay trở lại với vàng. Có thể nói, lợi ích của các nhà đầu tư mua vàng chưa chắc đã phải là một lá phiếu cho thấy sự tin tưởng ở kim loại quý, nhưng có thể là một lá phiếu về sự thiếu niềm tin vào các ngân hàng trung ương và chính phủ.