Theo đó, thông tin khách hàng của TCTD được hiểu là thông tin do khách hàng cung cấp, thông tin phát sinh trong quá trình khách hàng đề nghị hoặc được TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cung ứng các nghiệp vụ ngân hàng, sản phẩm, dịch vụ trong hoạt động được phép. Thông tin khách hàng bao gồm thông tin về tài khoản, về tiền gửi, về tài sản gửi, về giao dịch, về tổ chức, cá nhân.
Nghị định nêu rõ: thông tin khách hàng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải được giữ bí mật và chỉ được cung cấp theo quy định của Luật các TCTD năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017, nghị định này và pháp luật có liên quan.
TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cung cấp thông tin xác thực khách hàng khi truy cập các dịch vụ ngân hàng bao gồm mã khóa bí mật, dữ liệu sinh trắc học, mật khẩu truy cập của khách hàng, thông tin xác thực khách hàng khác cho bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào, trừ trường hợp được sự chấp thuận của khách hàng đó bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác theo thỏa thuận với khách hàng đó.
Cơ quan nhà nước, tổ chức khác, cá nhân chỉ được yêu cầu TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cung cấp thông tin khách hàng theo đúng mục đích, nội dung, phạm vi, thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc khi được sự chấp thuận của khách hàng và phải chịu trách nhiệm về việc yêu cầu cung cấp thông tin khách hàng.
Cơ quan nhà nước, tổ chức khác, cá nhân phải giữ bí mật thông tin khách hàng, sử dụng thông tin khách hàng đúng mục đích khi yêu cầu cung cấp thông tin và không được cung cấp cho bên thứ ba mà không có sự chấp thuận của khách hàng, trừ trường hợp cung cấp theo quy định của pháp luật.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải lưu trữ, bảo quản hồ sơ, tài liệu đối với thông tin khách hàng, hồ sơ yêu cầu cung cấp thông tin khách hàng, việc giao nhận thông tin khách hàng theo quy định của pháp luật.
Các trường hợp TCTD có thể cung cấp thông tin khách hàng
Nghị định nêu rõ, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài căn cứ quy định của pháp luật, nghị định này để ban hành quy định nội bộ về giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin khách hàng.
Về các trường hợp cung cấp thông tin khách hàng, nghị định chỉ cho phép TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cung cấp thông tin khách hàng cho tổ chức khác, cá nhân trong các trường hợp sau. Tổ chức khác, cá nhân có quyền yêu cầu TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cung cấp thông tin khách hàng được quy định cụ thể tại bộ luật, luật, nghị quyết của Quốc hội; có chấp thuận của khách hàng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác theo thỏa thuận với khách hàng.
TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có trách nhiệm cung cấp thông tin khách hàng cho chính khách hàng hoặc người đại diện hợp pháp của khách hàng đó.
Tại văn bản trả lời về dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) có quy định về việc các ngân hàng thương mại (NHTM) có trách nhiệm cung cấp thông tin của khách hàng cho cơ quan thuế, NHNN khẳng định quản lý thuế là chức năng của ngành thuế nên việc quy trách nhiệm cho NHTM là không phù hợp. Việc quy định thêm trách nhiệm phối hợp trong quản lý thuế là không phù hợp với chức năng và các mục tiêu của NHNN. Qua rà soát kinh nghiệm quốc tế, NHNN chưa thấy có quốc gia nào có quy định tương tự đối với ngân hàng trung ương. |
-
Ngân hàng Nhà nước: Cơ quan thuế yêu cầu NHTM cung cấp thông tin khách hàng là không phù hợp
CafeLand - Sau khi dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) được đưa ra lấy ý kiến, đã có nhiều cơ quan, chuyên gia tài chính đưa ra ý kiến góp ý. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng có văn bản trả lời Bộ Tài chính, cho rằng việc cơ quan thuế yêu cầu ngân hàng thương mại (NHTM) cung cấp thông tin khách hàng là không phù hợp.