Những hộ kinh doanh cá thể đang đóng góp khoảng 30% GDP, phần lớn nằm ngoài hệ thống thống kê chính thức, và dù tham gia tích cực vào hoạt động sản xuất, phân phối, tạo việc làm, họ vẫn đứng ngoài lề của các chính sách hỗ trợ.
Không ít người trong số họ đã kinh doanh 10–20 năm, tạo việc làm cho nhiều lao động địa phương, trả thuế khoán đầy đủ. Thế nhưng, họ không được tiếp cận tín dụng như doanh nghiệp, không thể thế chấp tài sản hình thành từ hoạt động kinh doanh, không được hưởng các chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc cho bản thân và người lao động, và không có tư cách pháp nhân để đàm phán mặt bằng hay ký kết hợp đồng dài hạn. Trong nhiều trường hợp, họ phải vay tín dụng đen với lãi suất cao gấp nhiều lần để duy trì hoạt động khi có biến động thị trường.
Sự thiệt thòi ấy phản ánh rõ một điều: hệ thống pháp lý hiện hành vẫn đang coi hộ kinh doanh là một “hình thức thấp” của doanh nghiệp, thay vì là một mô hình kinh doanh đặc thù cần khung pháp lý riêng. Thực tế, nhiều hộ không muốn “lớn lên” thành doanh nghiệp vì ngại bị kiểm tra chồng chéo, phát sinh chi phí tuân thủ, và đặc biệt là nguy cơ bị đánh thuế hai lần nếu vừa đăng ký doanh nghiệp vừa phải kê khai tài sản cá nhân.
Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, được Trung ương ban hành vào đầu năm 2024, đã lần đầu tiên đặt ra yêu cầu rõ ràng: “Bảo đảm quyền bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực, cơ hội kinh doanh giữa các chủ thể thuộc mọi loại hình, quy mô”. Đây là một điểm mấu chốt để xoá bỏ định kiến lâu nay rằng chỉ doanh nghiệp có đăng ký pháp nhân mới được gọi là thành phần kinh tế tư nhân đúng nghĩa. Tuy nhiên, để tinh thần này đi vào thực tiễn, vẫn cần sự cụ thể hoá bằng các quy định pháp luật và chính sách hành chính cấp bộ ngành và địa phương.
Một đề xuất đang được nhiều chuyên gia đưa ra là tạo cơ chế “chuyển đổi tự nguyện” cho hộ kinh doanh. Theo đó, những hộ nào muốn mở rộng hoạt động có thể chuyển lên mô hình doanh nghiệp nhỏ mà không bị tăng thuế đột ngột hoặc gánh thêm các chi phí tuân thủ không cần thiết. Ngược lại, với những hộ muốn duy trì mô hình kinh doanh truyền thống, cần thiết kế chính sách bảo trợ xã hội tối thiểu: bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội tự nguyện, cơ chế tiếp cận vốn tín chấp từ quỹ bảo lãnh.
Việc công nhận hộ kinh doanh là một lực lượng hợp pháp, có quyền được phát triển và được hỗ trợ như các doanh nghiệp khác, không chỉ là yêu cầu công bằng, mà còn là yếu tố sống còn để mở rộng nền tảng kinh tế tư nhân – như tinh thần Nghị quyết 68 đã đặt ra.
Bởi nếu hàng triệu hộ này cứ mãi bị “quên” trong thiết kế chính sách, chúng ta sẽ tiếp tục bỏ lỡ một trong những lực đẩy quan trọng nhất của nền kinh tế thực – những con người đang ngày ngày tự lực mưu sinh, giữ nhịp vận hành cho cả chuỗi sản xuất và phân phối hàng hóa khắp nông thôn và đô thị.
-
Từ ngày 1/1/2026: Chính thức bỏ thuế khoán đối với hộ kinh doanh
Sáng 17/5, với 429 đại biểu tán thành (chiếm 89,75%), Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân trong đó bỏ hình thức thuế khoán đối với hộ, cá nhân kinh doanh.
-
Xóa thuế khoán đối với hộ kinh doanh: Khép lại cơ chế thỏa thuận ngầm
Khi nền kinh tế đang chuyển mạnh sang mô hình sốchính sách thuế khoán dần trở thành lực cản thay vì công cụ hỗ trợ. Việc xóa bỏ thuế khoán từ năm 2026 được kỳ vọng sẽ tạo bước ngoặt trong quản lý thuế, khép lại cơ chế thỏa thuận ngầm và thúc đẩy công bằng, minh bạch.
-
Đề xuất không được thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp, hộ kinh doanh quá 1 lần/năm
Không được thanh tra, kiểm tra đối với mỗi doanh nghiệp, hộ kinh doanh quá 1 lần trong năm, trừ trường hợp có bằng chứng vi phạm rõ ràng.
theo Tạp chí Doanh nghiệp & Thương hiệu







