(ảnh
minh họa: SGTT)
Chưa có con số thống kê chính thức cả nước có bao nhiêu tiệm vàng. Chỉ biết rằng từ trước đến nay mỗi khi cần mua bán ngoại tệ, người ta ra tiệm vàng. Ngay cả những tiệm vàng không có giấy phép thu đổi ngoại tệ cũng vẫn mua bán đô la Mỹ. Tiệm vàng là mắt xích phổ biến đầu tiên và ở vòng ngoài cùng của hệ thống giao dịch ngoại tệ thị trường tự do.
Lần này khác...
Vòng
thứ hai của hệ thống đó là các bàn và các đại lý thu đổi ngoại tệ. Mười mấy năm
trước khi mạng lưới của các tổ chức tín dụng còn hạn chế, các đại lý thu đổi
ngoại tệ là cánh tay vươn dài của các ngân hàng. Về nguyên tắc, các đại lý chỉ
được phép mua, không được phép bán ngoại tệ.
Tuy
nhiên, nếu hoạt động đúng như thế, các đại lý không có nhiều lợi nhuận. Cho nên
họ dấm dúi vượt rào, bán ngoại tệ chui cho những ai có nhu cầu. Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) biết việc này, nên số lượng đại lý bị xiết lại, sự quản lý cũng chặt chẽ
hơn về điều kiện hoạt động kèm theo các đợt thanh, kiểm tra. Song sau mỗi đợt
kiểm tra, việc quản lý lỏng dần, việc bán ngoại tệ từ lén lút đến công khai của
các đại lý lại đâu vào đấy.
Mới
đây thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu nói với báo chí: “Chúng tôi sẽ phối hợp với
bên công an chấn chỉnh và tháo gỡ dứt điểm các bàn, đại lý thu đổi ngoại tệ. Mạng
lưới của các ngân hàng đã đủ rộng để đảm đương vai trò của các đại lý”.
Trên
thực tế, hiện TPHCM có 78 bàn, đại lý thu đổi ngoại tệ. Ở Hà Nội con số này ít
hơn, nhưng cũng không dưới 60 - 70. Tính bình quân mỗi ngân hàng có 10 đại lý,
thì cả nước đang có ít nhất 420 đại lý thu đổi ngoại tệ (42 ngân hàng nội. Các
ngân hàng ngoại không có đại lý dạng này - NV).
Mỗi
đại lý được các ngân hàng khoán mức thu đổi ngoại tệ khác nhau tùy theo từng đơn
vị, tùy vị trí và quy mô. Mức khoán cao nhất, khoảng 100.000 - 150.000 đô la Mỹ/tháng
hoặc xấp xỉ 300.000 - 500.000 đô la Mỹ/quí. Thông thường thì 50.000 - 60.000 đô
la Mỹ/tháng. Mức khoán có nghĩa là hàng tháng mỗi đại lý phải bán cho ngân hàng
của họ số ngoại tệ nói trên theo tỷ giá tiền mặt niêm yết của ngân hàng.
Với
nhiều đại lý, không ai (trừ họ) có thể biết chính xác số ngoại tệ họ thu đổi được
dù theo quy định, họ phải ghi lại chi tiết trên sổ sách các giao dịch hàng
ngày. Tất nhiên, các đại lý không đời nào bán ngoại tệ vượt quá mức khoán cho
ngân hàng. Phần vượt họ bán ra ngoài với giá cao, kiếm lời.
Các
ngân hàng biết điều đó, nhưng cũng không có cách gì bắt bẻ được. Thay vào đó
hai bên xây dựng mối quan hệ thân thiện. Có khi doanh nghiệp cần ngoại tệ mà
ngân hàng không có, họ được “giới thiệu” qua đại lý thu đổi ngoại tệ. Số lượng
giao dịch lớn bao nhiêu, các đại lý cũng lo được. Chỗ họ không đủ, họ gom của
những đại lý khác, của tiệm vàng. Chỉ cần thỏa thuận được giá là xong.
Cần điều kiện chuyển
tiếp
Mối
quan hệ giữa các đại lý cũng rộng như ngân hàng. Họ có thể lấy hàng từ các tỉnh
về TPHCM và ngược lại. Vào những thời điểm “nóng”, giá bán ngoại tệ được chốt với
khách hàng ở thành phố ngày hôm trước, hàng giao ngày hôm sau là chuyện thường.
Nếu giá ngày hôm sau tăng, đại lý thiệt, giá giảm họ lời.
Với
các ngoại tệ mạnh khác, đại lý không giao dịch theo giá mua bán của ngân hàng,
mặc dù ngân hàng được phép tự ấn định tỷ giá tiền đồng với euro, yen, Bảng... Họ
nhìn vào sự biến động của các ngoại tệ so với đô la Mỹ để đưa ra giá giao dịch.
Có
những đại lý lỗ nhiều, nhưng lời cũng lắm do trở tay không kịp với tỷ giá quốc
tế. Thời điểm đồng euro giảm nhiều ngày liên tục, xuống 1,18 - 1,19 đô la Mỹ/euro,
có đại lý mất hàng tỉ đồng chỉ trong vài ngày. Những đại lý chuyên giao dịch đồng
đô la Úc thì năm ngoái lãi khẳm.
Bây
giờ sự tồn tại của các bàn, đại lý thu đổi ngoại tệ không mang lại nhiều lợi
ích cho các ngân hàng bởi ngân hàng hiện diện khắp nơi. Các điểm giao dịch của
ngân hàng đều có chức năng mua ngoại tệ của khách hàng cá nhân, nhỏ lẻ. Còn
giao dịch với doanh nghiệp thì phải tùy chức năng từng nơi.
Nguồn
cung mà các đại lý thu đổi ngoại tệ cung ứng cho thị trường tự do không lớn so
với giá trị giao dịch của toàn thị trường, nhưng nó cùng với các tiệm vàng, là
nơi người dân có thể mua dễ dàng nếu họ có nhu cầu về ngoại tệ như đi du lịch,
du học, chữa bệnh, hay hỗ trợ người thân ở nước ngoài.
Việc
dẹp các bàn, đại lý thu đổi ngoại tệ chỉ có thể hiện thực khi có điều kiện chuyển
tiếp, tức ngân hàng phải là nơi bán ngoại tệ cho người dân có nhu cầu chính
đáng, chứ không phải chỉ mua.
Thêm
một lần nữa, vấn đề chênh lệch tỷ giá chính thức - chợ đen lại được đặt ra. Đã
có thời điểm tỷ giá thị trường tự do thấp hơn tỷ giá do NHNN công bố, ai đến
ngân hàng mua đô la cũng được chẳng cần phải giấy tờ chứng minh nhu cầu mua để
làm gì. Khi đó để bán được ngoại tệ cho ngân hàng, người bán còn phải trả phí.
Vì thế, các biện pháp quản lý, xét cho cùng phải dựa trên diễn biến tỷ giá. Các bàn, đại lý thu đổi ngoại tệ sẽ dần dần tự dẹp tiệm trong trường hợp chênh lệch tỷ giá trong - ngoài ngân hàng không còn.