Bất động sản hút tiền
Ngày 30.11, trong lễ công bố Báo cáo Năng lực cạnh tranh VN, Giáo sư
Michael E. Porter đã phải thốt lên rằng: Việt Nam đang có quá nhiều dự
án bất động sản (BĐS). Ông này nhấn mạnh: Đi đến đâu cũng thấy người ta
xây nhà với những chiếc cần cẩu chọc trời. "Liệu có quá dày đặc không?"
– chiến lược gia hàng đầu thế giới về cạnh tranh nhấn mạnh.
Tiền đồng mất giá là một nguyên nhân khiến người dân tích trữ vàng. Ảnh: KỲ ANH
Cũng theo Giáo sư Michael E. Porter thì
phát triển BĐS không phải là không tốt. Thế nhưng việc BĐS hút quá
nhiều tiền, quá nhiều nguồn lực tài chính rất có thể tạo ra sự mất cân
bằng. Việc BĐS hút quá nhiều tiền khiến cho các lĩnh vực sản xuất khác
khát vốn. Hệ quả là nguồn lực tài chính cho sản xuất bị thiếu hụt,
không tạo ra được lượng sản phẩm cần thiết cho nhu cầu xã hội.
Theo các chuyên gia, đây là cảnh báo quan trọng dù không phải là mới,
song lại đặc biệt đáng lưu tâm trong bối cảnh hiện nay. Trên thực tế,
dù chưa có thống kê cụ thể nào về lượng tiền đổ dồn vào BĐS, thế nhưng
con số đó là quá nhiều. Một điểm đáng lưu ý khác là cùng với dòng vốn
đầu tư trong nước, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đổ dồn
vào BĐS tại VN cũng là quá lớn lên đến hàng chục tỉ USD. Đây cũng là
dòng tiền đáng lo ngại. Bởi lẽ được “tiếng” là đầu tư FDI, nhưng dòng
tiền này lại không đầu tư vào sản xuất mà đầu tư vào lĩnh vực không tạo
ra của cải vật chất cho xã hội. Thậm chí, đây lại là phương thức đầu cơ
dưới góc nhìn của không ít chuyên gia. “Dòng tiền nước ngoài đổ vào
BĐS. Họ thậm chí còn huy động vốn trong nước từ những khách hàng, sau
đó kết hợp với vốn đầu tư để xây dựng lên những ngôi nhà rồi bán kiếm
lời với giá cao ngất ngưởng.
Nếu xem xét thấu đáo thì rõ ràng, NĐT đã lấy một phần “mỡ” là dòng tiền
trong nước để “dán” chính dự án BĐS. Sau khi bán hết dự án, họ rút đi
cùng với vốn và lợi nhuận - một chuyên gia về BĐS phân tích - Đây chính
là lý do lo ngại về dòng tiền này”. Biểu hiện đáng lo ngại đối với nền
kinh tế hiện nay là NĐT bơm vốn vào BĐS, sân golf, resort, khu nghỉ
dưỡng... trong khi đó, không ít sân golf, khu nghỉ dưỡng... nằm phơi
nắng mưa, gây lãng phí nguồn lực, không trực tiếp tạo ra sản phẩm vật
chất cho xã hội.
Một điểm đáng lo ngại khác về dòng tiền đổ vào BĐS là cùng với lượng
vốn lớn, quay vòng và thu hồi chậm thì việc có quá nhiều dự án BĐS còn
tác động đến hàng loạt vấn đề kinh tế, xã hội khác. Đó là hệ luỵ về
diện tích đất sản xuất, canh tác; mất cân đối cán cân cung - cầu BĐS;
mất cân bằng nguồn lực kinh phí cho các lĩnh vực sản xuất kinh doanh
khác; thậm chí còn khiến cho các nguồn cung nguyên vật liệu như ximăng,
sắt thép... mất cân đối và bị đội giá...
Đầu cơ vào vàng
Một dòng tiền đáng lo ngại khác là việc đổ dồn hàng núi tiền vào tích
trữ và đầu cơ vàng. Theo số liệu nhập khẩu vàng được NHNN công bố thì
từ 1998 đến 2010, Việt Nam đã nhập khẩu vào khoảng 71 tấn vàng. Gần đây
nhất khi giá vàng lên cao, NHNN cũng đã công bố cho phép DN được nhập
khẩu vàng với số lượng không hạn chế. Việc người dân đổ dồn vào mua
vàng tích trữ và đầu cơ buộc các DN nhập khẩu phải bỏ ra lượng lớn
ngoại tệ để nhập khẩu và đáp ứng nhu cầu tích trữ và đầu cơ vàng trong
nước.
Như vậy, rõ ràng là đã có một lượng lớn ngoại tệ thay vì được sử dụng
để đầu tư cho sản xuất, kinh doanh thì lại được “chôn chặt” vào những
thỏi vàng không trực tiếp sản xuất, đem lại sản phẩm cho xã hội. Các
chuyên gia cho rằng với tư duy kiểu “đúc ống tiết kiệm” kiểu giữ vàng
như thế này, nguồn lực tài chính đã bị lãng phí nghiêm trọng, thậm chí
là chảy ra nước ngoài theo con đường mua vàng tích trữ. Theo Thống đốc
NHNN Nguyễn Văn Giàu thì trong tháng 11.2010, lần thứ hai trong vòng 3
tháng, NHNN đã mở quota cho phép gần 10 đơn vị nhập khẩu vàng.
Nhưng điều đáng lo ngại hơn nữa là giá vàng tiếp tục lên cao, thị
trường vàng tiếp tục diễn biến phức tạp. Đây chính là một phần lý do
khiến người dân tiếp tục có tâm lý tích trữ vàng để đề phòng rủi ro,
thay vì đem số tiền đó để huy động phục vụ sản xuất, kinh doanh. Trên
thực tế, dù biết rất rõ việc mua vàng để tích trữ và đầu cơ khiến cho
Việt Nam mất đi nguồn lực tài chính lớn, thế nhưng cho đến nay các cơ
quan quản lý chỉ đưa ra được vài biện pháp tình thế. Còn việc xây dựng
một chính sách hoàn chỉnh để xử lý thị trường vàng, khai thác và giải
phóng số vàng đang đọng trong xã hội để đưa trực tiếp vào sản xuất kinh
doanh, tạo giá trị gia tăng cho xã hội thì vẫn chưa có.