Năng lực cạnh tranh còn hạn chế
Trong báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương cho biết, tính đến năm 2021, năng lực sản xuất phôi thép của cả nước là 27 triệu tấn/năm, trong đó thép cuộn cán nóng (HRC) là 7-8 triệu tấn/năm.
Với thép xây dựng, năng lực sản xuất trong nước khoảng 14 triệu tấn sẽ đảm bảo 100% cho nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như đáp ứng được một phần nhu cầu xuất khẩu. Trong đó, có 42% sản xuất là được sử dụng từ phế liệu thép nhập khẩu; có 58% sản xuất từ lò cao, sử dụng nguyên liệu là quặng sắt.
Đối với thép phục vụ ngành cơ khí, chế tạo, Việt Nam cũng đã sản xuất và đáp ứng được một phần thép cuộn cán nóng HRC (khoảng 8 triệu tấn/năm).
Năng lực cạnh tranh của ngành thép trong nước còn hạn chế
Tuy nhiên, ngoài một số nhà máy sản xuất thép có công suất lớn như Khu liên hợp Gang thép Hòa Phát Dung Quất, Khu liên hợp Gang thép Hưng Nghiệp Formosa, thép Nghi Sơn thì vẫn tồn tại nhà máy có công suất nhỏ, thiết bị lạc hậu, tiêu tốn năng lượng và nguy cơ về môi trường.
Theo Bộ Công Thương, năng lực sản xuất thép ở trong nước còn nhiều hạn chế, chủ yếu là các sản phẩm chưa thể cung cấp đủ nhu cầu thép cho toàn bộ nền kinh tế; đặc biệt là thép hợp kim, Việt Nam chưa sản xuất được các loại thép đặc biệt.
Phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu
Năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam được Bộ Công Thương nhận định còn khá hạn chế do phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, một số nhà máy sản xuất có công suất nhỏ, lạc hậu...
Cụ thể, các doanh nghiệp ngành thép trong nước còn phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu nước ngoài như quặng sắt, thép phế liệu, than mỡ luyện cốc, điện cực graphite… Do đó, khi giá các nguyên liệu đầu vào biến động sẽ làm giá thép thành phẩm trong nước cũng phải điều chỉnh theo thị trường thế giới.
Sức cạnh tranh của ngành thép Việt còn thấp vì phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu
Dự kiến trong năm 2022, Việt Nam phải nhập khẩu nhiều loại nguyên liệu để sản xuất thép như quặng sắt cho các lò cao khoảng hơn 18 triệu tấn; thép phế khoảng 6-6,5 triệu tấn cho các lò điện; than mỡ luyện cốc khoảng 6,5 triệu tấn và điện cực graphite khoảng 10.000 tấn.
Với dự báo các nguyên vật liệu đầu vào vẫn duy trì ở mức cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp sản xuất thép và thị trường thép trong nước.
Được biết, giá các mặt hàng sắt thép bắt đầu tăng mạnh từ giữa tháng 3. Tính từ đầu năm đến nay, giá thép đã tăng 7 lần, với tổng mức tăng đến 2,4 triệu đồng/tấn, từ 16,5 lên hơn 19 triệu đồng/tấn.
Bước sang tháng 4, giá thép xây dựng trong nước vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Hiện giá thép xây dựng các loại khoảng 18.600-20.600 đồng/kg. Như vậy, giá thép xây dựng các loại trung bình trong quý 1.2022 khoảng 18.890 đồng/kg, tăng 3,5% so với quý 4.2021.
Nhìn nhận quá trình phát triển gần đây, Bộ Công Thương cho rằng trong giai đoạn 2016-2021, ngành công nghiệp thép đã có sự phát triển nhanh nhưng mất cân đối giữa phát triển thượng nguồn và hạ nguồn.
Cụ thể, các sản phẩm sau thép như tôn mạ kẽm, thép ống tăng trưởng tốt về giá trị sản xuất và xuất khẩu. Trong khi đó, các chủng loại thép hợp kim, đặc biệt là thép cuộn cán nóng HRC - nguyên liệu đầu vào cần thiết cho nhiều ngành như sản xuất thép cán nguội (CRC), tôn mạ, ống thép, đóng tàu, cơ khí chế tạo có nhu cầu lớn, song năng lực sản xuất trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu nên dẫn đến tiếp tục phải nhập khẩu với số lượng lớn.
Hiện nhu cầu về mặt hàng thép cuộn cán nóng HRC tại Việt Nam là 12 triệu tấn mỗi năm, tăng bình quân từ 10-20%. Cả Formosa và Hòa Phát có thể cung ứng cho thị trường khoảng trên 600.000 tấn/tháng, đáp ứng khoảng được khoảng 60%, còn lại 40% vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Về lâu dài, để đảm bảo nhu cầu thép HRC và các loại thép hợp kim, thép chất lượng cao trong nước cần tiếp tục thu hút và đầu tư một số Nhà máy liên hợp sản xuất thép lớn để phục vụ nhu cầu nội địa, giảm dần sự phụ thuộc vào thép nhập khẩu.
Cần chính sách đặc thù để phát triển ngành thép
Trong báo cáo của Bộ Công Thương nêu rõ, mặc dù ngành thép có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, nhưng hiện nay không có chính sách đặc thù, riêng biệt để thúc đẩy, cũng như định hướng để phát triển ngành thép Việt Nam.
Chính vì thế, để nâng cao sức cạnh tranh cho ngành thép, Bộ Công Thương đề xuất xây dựng “Chiến lược phát triển ngành thép Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050”.
Để ngành thép phát triển bền vững và ổn định, Nhà nước cần phải xây dựng chính sách để thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp thép tạo nền tảng cơ bản cho công nghiệp hóa theo hướng hiện đại và bền vững.
Bộ Công Thương đưa ra một số định hướng để phát triển mạnh ngành luyện kim, vật liệu, đặc biệt là các loại thép chế biến chế tạo.
Thứ nhất, với chủng loại thép cuộn cán nóng HRC, trong giai đoạn tới cần phát triển đầu tư thêm các dự án sản xuất lớn. Đây là loại thép chiến tỷ trọng lớn trong ngành chế biến chế tạo.
Thứ hai, với thép hợp kim và đặc biệt phục vụ ngành cơ khí, Việt Nam cần xây dựng các tổ hợp luyện kim có quy mô lớn, trong đó tập trung vào sản xuất các loại thép chế biến chế tạo có trình độ công nghệ có dung lượng thị trường lớn để bước đầu làm chủ công nghệ sản xuất các loại thép chế biến chế tạo cơ bản.
Đặc biệt, Bộ Công Thương còn đề cập tới vấn đề nhà nước có các chính sách ưu đãi về đất đai, hạ tầng, về khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực để khuyến khích, thúc đẩy các dự án thép phát triển nhằm hình thành phát triển mạnh ngành luyện kim, đáp ứng quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thép chế tạo sẽ trở thành mũi nhọn của ngành
Theo Bộ Công Thương, công nghiệp hoá trước hết được xác định bởi sự phát triển nhanh và bền vững của các ngành công nghiệp nền tảng, đặc biệt là các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
Theo dự báo sơ bộ, tổng nhu cầu thị trường các ngành chế tạo của Việt Nam giai đoạn đến 2030 có thể đạt tới 310 tỉ USD. Trong đó nhu cầu thị trường từ cơ khí phục vụ công trình công nghiệp là 120 tỉ USD; cơ khí xây dựng, nông nghiệp, chế biến là 15 tỉ USD; giao thông đường sắt là 35 tỉ USD, tàu điện ngầm là 10 tỉ USD và ôtô là 120 tỉ USD.
"Đây sẽ là thị trường rất lớn cho ngành thép trong nước, đặc biệt là thép chế tạo, hợp kim chất lượng cao…", Bộ Công Thương nhận định.
Ngành thép cung cấp nguyên vật liệu đầu vào quan trọng nhất cho các ngành sản xuất, chế tạo, đặc biệt là các ngành như cơ khí, công nghiệp đóng tàu, sản xuất ôtô xe máy, sản xuất đồ gia dụng, công nghiệp quốc phòng, công nghiệp khai khoáng, công nghiệp điện...
Vì thế, phát triển ngành thép trong nước theo hướng tự chủ là yêu cầu tất yếu để thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp thép tạo nền tảng cơ bản cho công nghiệp hóa theo hướng hiện đại và bền vững.
-
Xuất khẩu thép Việt Nam: Cơ hội nhiều, thách thức lớn
Mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức từ biến động giá nguyên liệu và rủi ro phòng vệ thương mại, nhưng xuất khẩu thép của Việt Nam trong quý đầu năm 2022 vẫn có bước tăng trưởng đáng kể.