Thông tin tại Hội nghị “Đô thị Việt Nam thân thiện môi trường - phát
triển bền vững”do Bộ Xây dựng và Diễn đàn Đô thị Việt Nam tổ chức nhân
ngày Đô thị Việt Nam (8-11) cho biết, cả nước hiện có 755 đô thị, trong
đó có hai đô thị loại đặc biệt là Thủ đô Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Tỷ lệ
đô thị hóa đạt khoảng 30,5%, tăng bình quân khoảng 3,4%/năm. Theo tổng
điều tra dân số tháng 4-2009, cả nước có 85,8 triệu người, trong đó có
25,4 triệu dân đô thị, chiếm 29,6% dân số cả nước. Đến tháng 8-2011, dân
số đô thị tăng lên hơn 38 triệu người,chiếm hơn 43% dân số cả nước,
trong đó dân số nội thị là hơn 27 triệu người, chiếm hơn 31%. Kinh tế đô
thị đóng góp khoảng 70% GDP cả nước. Tăng trưởng bình quân của các khu
vực đô thị từ 12% - 15%, gấp 1,5 đến hai lần trung bình cả nước.
Tăng trưởng vượt khả năng điều hành
Tuy nhiên theo KTS Phan Thị Mỹ Linh – Cục trưởng cục phát triển đô thị - Bộ Xây dựng, “nếu so sánh với GDP bình quân các khu vực đô thị của các nước Đông Nam Á và châu Á thì tăng trưởng của đô thị Việt Nam còn thấp, kém cạnh tranh so với các đô thị khu vực và thế giới”.
Bà Linh nhận định thêm, tốc độ phát triển quá nhanh của đô thị đã vượt khả năng điều hành của chính quyền địa phương. Năng lực quản lý phát triển đô thị chưa theo kịp nhu cầu đòi hỏi của thực tế. Sự phát triển không đồng bộ giữa mở rộng không gian đô thị và chất lượng đô thị. Quy hoạch, đánh giá phân loại, nâng cấp đô thị chưa coi trọng tới việc đổi mới, nâng cao chất lượng đô thị. Nhu cầu vốn đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật đô thị lớn nhưng việc xã hội hóa, huy động các nguồn lực trong xã hội còn hạn chế.
Bà Linh chỉ ra rằng, hiện tượng ùn tắc, tai nạn giao thông vẫn là mối lo ngại tại các đô thị lớn, tỷ lệ đất giao thông, tỷ lệ dân đô thị được cấp nước còn thấp, thất thoát nước còn lớn, trong khi tình trạng ngập úng cục bộ trong mùa mưa, ô nhiễm môi trường chậm được khắc phục… Chiếu sáng tại nhiều đô thị chưa được quan tâm đúng mức, tỷ lệ bãi chôn lấp chất thải hợp vệ sinh còn thấp, khí thải và tiếng ồn đô thị chưa được xử lý.
Đặc biệt đô thị Việt Nam còn đang đứng trước các vấn đề lớn, phức tạp của quá trình đô thị hóa và phát triển đô thị như dịch cư, chênh lệch giàu nghèo, nhà ở, lao động, việc làm, phát triển vùng ven đô, liên kết đô thị - nông thôn, tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên… và các vấn đề mới nảy sinh mang tính toàn cầu như hội nhập, cạnh tranh đô thị, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, thảm họa tự nhiên…
Theo KTS Phan Thị Mỹ Linh Việt Nam cần tăng cường kiểm soát phát triển đô thị, hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý, quy hoạch đô thị bảo đảm nguyên tắc tạo động lực phát triển kinh tế, là hạt nhân thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ở mỗi địa phương, mỗi vùng và cả nước. Quy hoạch phải kết hợp hài hòa giữa bảo tồn, cải tạo và xây dựng mới, phát huy các giá trị truyền thống để tạo bản sắc, tăng sức cạnh tranh; Cũng cần sử dụng hợp lý nguồn lực và tài nguyên nhiên nhiên và áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ mới để xây dựng đô thị hiện đại, ứng phó tốt với biến đổi khí hậu.
Cần xây dựng cơ sở dữ liệu phát triển đô thị toàn quốc làm cơ sở hỗ trợ công tác quản lý đô thị. Tăng cường hợp tác quốc tế, nghiên cứu khoa học, thu hút đầu tư hợp lý cho phát triển đô thị theo hướng đô thị thân thiện môi trường và phát triển bền vững. Cần huy động nhiều nguồn lực của xã hội trong và ngoài nước. Việc nâng cao nhận thức, trách nhiệm và năng lực của chính quyền, người dân trong việc tham gia quản lý đầu tư và thực hiện quy hoạch cần được tiếp tục tuyên truyền phổ biến và nhân rộng bằng nhiều hình thức khác nhau.
Gợi mở đô thị tương lai
Bộ
trưởng Xây dựng Trịnh Đình Dũng cho biết đến năm 2015, tỷ lệ đô thị hoá
của nước ta đạt khoảng 38%, cả nước sẽ có khoảng trên 870 đô thị các
loại, tăng khoảng 125 đô thị so với hiện nay. Ông nhìn nhận 'đây thực sự
là khó khăn, thách thức'.
Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng cho rằng kiểm soát tốt quá trình đô thị hoá vừa bao gồm thực hiện các định hướng, quy hoạch dài hạn, vừa triển khai các chương trình, dự án cụ thể ngắn hạn có tính khả thi cao bảo đảm khai thác và phát huy tốt nhất mọi tiềm năng về tự nhiên, xã hội, tài nguyên thiên nhiên, tiến bộ khoa học kỹ thuật và nhất là nguồn lực con người. Trong đó, cần có các giải pháp đột phá, nhằm thu hút mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển đô thị, để phát triển đô thị thực sự là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời với đảm bảo an sinh xã hội và duy trì phát triển bền vững quốc gia.
Theo nhiều chuyên gia những thách thức điển hình là: quy hoạch đang triển khai rất chậm làm cản trở quá trình phát triển bền vững; Chất lượng quy hoạch hạn chế do thiếu nhiều quy hoạch phân khu và chi tiết; thiết kế đô thị còn lúng túng, không được coi trọng tại một số địa phương nặng về tự phát. Hầu hết các dự án được lập ra sau đó mới tính đến việc làm đô thị, đi ngược lại quy trình là lập quy hoạch đô thị rồi mới kêu gọi dự án. Việc này dẫn đến vừa thừa, vừa thiếu đô thị khiến kết nối hạ tầng khó khăn do không đồng bộ, gây ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường.
Chuyên gia trưởng và Điều phối viên Ban phát triển đô thị thuộc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, ông Dean A.Cira đánh giá: “Việt Nam hiện mới chỉ ở giai đoạn đầu của đô thị hóa quá độ sang giai đoạn trung gian với tốc độ đô thị hóa nhanh chóng”. Nhìn từ góc độ kinh tế, vị chuyên gia này phân tích, Việt Nam đã phát triển hai hệ thống đô thị lõi – ngoại vi độc lập và có tính chi phối là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Hai hệ thống này thúc đẩy tăng trưởng của cả nền kinh tế. WB cho rằng tăng trưởng kinh tế được dẫn dắt bởi một hoặc vài trọng điểm kinh tế nòng cốt là phù hợp với những quốc gia đang phát triển nhanh chóng như Việt Nam. Công nghiệp hóa phát triển nhanh chóng ở Hà Nội và đồng bằng sông Hồng do nằm kề với những cơ sở công nghiệp lớn ở miền nam Trung Quốc. Nhưng dường như TP Hồ Chí Minh và khu vực Đông Nam Bộ đã có dấu hiệu bão hòa trong sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp. Tuy nhiên, đang có sự phát triển nhanh chóng các cảng container nước sâu quanh khu vực TP Hồ Chí Minh, tạo ra một năng lực thông quan lớn hơn toàn bộ năng lực hiện tại của Singapore. Lần đầu trong lịch sử quốc gia, Việt Nam đã kết nối với Tây Âu và Bắc Mỹ qua dịch vụ đường biển trực tiếp.
Ông Dean A.Cira gợi ý: “Những khác biệt này về đặc trưng kinh tế và chiến lược có lưu ý quan trọng đối với các nhà làm chính sách”.
Ông Dean A.Cira lưu ý, vận tải hàng hóa
trong nội đô Hà Nội và TP Hồ Chí Minh khẳng định thế mạnh của hai hệ
thống đô thị này. Tuy nhiên hai đô thị này đang bị hạn chế lợi thế cạnh
tranh của mình do những nút thắt cổ chai trong hậu cần và có chi phí vận
chuyển cao không tương xứng. “Vì vậy, hai thành phố này cần ưu tiên cải
thiện hạ tầng đường sá để liên kết với các vùng lân cận là rất cần
thiết” – ông nói.
Vị chuyên gia này cũng cảnh báo, có dấu hiệu cho thấy các tỉnh hiện đang hướng tới cách tiếp cận tốn kém hơn và mạo hiểm hơn là xây dựng “đô thị mới”, và hướng đến các dự án bất động sản cao cấp và mang tính biểu tượng dựa trên chiến lược đô thị hòa nhập. Điều này giải thích cho sự mở rộng nhanh chóng ra chung quanh của các đô thị Việt Nam.
Ông Dean A.Cira đánh giá cao Việt Nam đã đạt được thành tựu 96% dân số có cơ hội tiếp điện. Tuy nhiên các dịch vụ cơ bản khác như nước và vệ sinh vẫn ở mức thấp. Dữ liệu từ 65 công ty cấp nước cho thấy năm 2007 vẫn còn gần 30% hộ gia đình khu vực đô thị chưa có cơ hội kết nối hệ thống nước. Năm 2009 vẫn còn khoảng 33% số hộ khu vực này chưa có cơ hội sử dụng nhà vệ sinh. Ông khuyên các nhà quy hoạch nên tính trước việc: “Khi Việt Nam chuyển sang mức thu nhập cao hơn thì các dịch vụ sẽ phải tập trung vào chất lượng”.