11/04/2020 9:39 PM
CafeLand – Thành công của đất nước nằm ở rìa bán đảo Đông Dương trong việc kiểm soát đại dịch COVID-19 cung cấp một mô hình mà các nền kinh tế mới nổi khác nên làm theo.

Khi virus corona mở rộng “tầm ảnh hưởng” của nó sang bán cầu Nam, chính phủ của các quốc gia khác nhau rõ ràng có nhiều điều cần học hỏi từ cách tiếp cận của Việt Nam. Việc thông tin rõ ràng từng chi tiết và sự hợp tác có hiệu quả giữa chính quyền với người dân bằng cách tận dụng mạng xã hội và công nghệ là những lý do chính giải thích tại sao đất nước này có tương đối ít trường hợp nhiễm, cũng như chưa có ca tử vong nào.

Cụ thể hơn về cách làm của Việt Nam đó là việc kiểm soát biên giới chặt chẽ, các bộ phận y tế linh động, nền tảng công nghệ hiện đại và hiện tượng internet “Ghen Cô Vy”. Tất cả đã bổ sung cho một phản ứng tiết kiệm nhưng hiệu quả cao đối với mối đe dọa của COVID-19.

Mỗi quốc gia châu Á có một phản ứng khác nhau đối với sự bùng phát của đại dịch COVID-19, tất nhiên chúng đều thu hút sự chú ý của công luận quốc tế.

Cơ quan y tế Đài Loan đã điều tra các trường hợp viêm phổi được báo cáo ở Vũ Hán trước khi sự lây lan cộng đồng xảy ra. Hàn Quốc đã thiết lập một hệ thống ứng phó khẩn cấp không ngừng nghỉ để sàng lọc tất cả du khách vào nước này từ Vũ Hán vào đầu tháng 1. Tương tự, Singapore đã huy động một lực lượng đặc nhiệm liên cơ quan để theo dõi liên lạc rộng rãi, kiểm dịch cộng đồng và xét nghiệm tích cực, đồng thời chi trả các chi phí sàng lọc và điều trị.

Phản ứng kịp thời của các quốc gia này bắt nguồn từ các nhà lãnh đạo của họ. Các chính phủ nhận thức rõ ràng được tầm nguy hiểm, mức độ nghiêm trọng của virus corona chủng mới. Chính phủ Việt Nam thắt chặt kiểm soát biên giới và đặt các bệnh viện và sở y tế địa phương cảnh giác cao đối với các trường hợp viêm phổi mới vào ngày 3/1 - trước ca tử vong đầu tiên ở Trung Quốc và chỉ ba ngày sau khi xác nhận dịch bệnh ở đó.

Các trường hợp đầu tiên của Việt Nam được ghi nhận vào ngày 23/1, và tình hình dường như được kiểm soát cho đến khi một làn sóng hồi hương của một bộ phận lớn du học sinh, kiều bào và khách du lịch. Tuy nhiên, quốc gia hình chữ S đã xử lý khủng hoảng tốt đến mức tránh được việc trở thành một tâm dịch mới.

Đáng chú ý nhất, Việt Nam không hành động giống như Hàn Quốc khi chi tiền đáng kể cho xét nghiệm tích cực, hay Singapore, nơi đã thiết lập giám sát dịch tễ học mạnh mẽ. Quốc gia Đông Dương này đã thực hiện một cách tiếp cận thân thiện với ngân sách đã được chứng minh là hiệu quả không kém. Bất chấp những kỳ vọng về tỷ lệ lây truyền cao, do có biên giới chung với Trung Quốc và khối lượng thương mại song phương cao, Việt Nam chỉ ghi nhận 1/5 số ca nhiễm bệnh. Và đặc biệt nhất như lời ca ngợi của Singapore, Việt Nam chưa có ca tử vong nào.

Nghiên cứu gần đây của các chuyên gia về chính sách phản ứng của Việt Nam với đại dịch COVID-19 đã cho thành công ban đầu của đất nước trong việc làm chậm tốc độ lây nhiễm nhờ chính quyền tập trung vào truyền thông và giáo dục công cộng thông qua các nền tảng công nghệ, và truy tìm tận gốc các mầm bệnh.

Với 65% trong tổng số 96 triệu người dân của Việt Nam sử dụng mạng Internet, các trang báo điện tử chính thức và các kênh truyền thông xã hội (60% trên Facebook) đã chia sẻ thành công thông tin về loại virus mới này. Trong thời đại khó theo dõi và ngăn chặn sự lây lan của thông tin sai lệch, hiểu được mối đe dọa, đặc biệt là tỷ lệ lây nhiễm của nó, là chìa khóa để công dân có thể sẵn sàng hợp tác, cho dù thông qua xã hội hay tự cách ly.

Kể từ ngày 3/1, truyền thông Việt Nam đã mô tả căn bệnh nổi lên từ Vũ Hán là một bệnh viêm phổi bí ẩn hay kỳ lạ. Từ ngày 9/1 đến ngày 15/3, trung bình 127 bài viết về chủ đề này đã được xuất bản hàng ngày tại 13 trong số các trang tin tức trực tuyến phổ biến nhất. Không có nhiều tin đồn và tin tức giả mạo được lan truyền. Do đó, người Việt Nam thường không xem COVID-19 chỉ là một bệnh cúm theo mùa khác, mà là một căn bệnh nghiêm trọng đe dọa khi bùng phát tương tự hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS) năm 2003. Trải nghiệm của cộng đồng với SARS, cũng như với cúm gia cầm, đã giúp định hình nhận thức về COVID-19, và có khả năng ảnh hưởng đến sự sẵn sàng phản ứng của mọi người.

Việc kiểm soát, truy tìm liên lạc toàn diện chỉ hoạt động khi các cá nhân hiểu được tính cấp bách của vấn đề và sẵn sàng cung cấp thông tin trung thực và chi tiết về chuyến đi và các tương tác của họ. Điều này đúng ngay cả ở các quốc gia dưới sự cai trị độc đảng. Tại Việt Nam, công dân đã tự nguyện chia sẻ thông tin sức khỏe cá nhân thông qua một ứng dụng do chính phủ ra mắt có tên NCOVI. Nó đã trở thành ứng dụng miễn phí hàng đầu tại Việt Nam kể từ khi ra mắt vào ngày 10/3.

Mặc dù không có các ứng dụng tiếng Việt do cộng đồng phát triển theo dõi các vị trí hoặc cá nhân bị lây nhiễm hoặc có các triệu chứng nghi ngờ, như ở Đài Loan và Hàn Quốc, các nền tảng dựa trên công nghệ của Việt Nam đã tỏ ra có giá trị. Chúng cung cấp thông tin cập nhật về sự bùng phát và các mẹo để phòng bệnh, nhanh chóng sửa chữa thông tin sai lệch, thu thập thông tin một cách có hệ thống và xác định các cụm trường hợp càng sớm càng tốt.

Công nghệ cũng đang giúp những người ở tuyến đầu chống lại đại dịch. Trong ba tháng kể từ khi dịch bệnh bùng phát, các bệnh viện địa phương, viện nghiên cứu và trường đại học đã tạo ra những nền tảng đáng tin cậy để theo dõi các trường hợp kiểm dịch COVID-19, tăng sản xuất thuốc khử trùng tay, công bố những phát hiện lâm sàng quan trọng về bệnh và phát triển bộ dụng cụ xét nghiệm tìm virus với chi phí thấp. Bộ dụng cụ này hiện đã được xuất khẩu sang nhiều nước châu Âu như Ý, Đức, …

Bên cạnh đó, Việt Nam còn đầu tư vào các hình thức đơn giản về chi phí nhưng lại tạo nên hiệu ứng mạnh mẽ. Đó là trường hợp của “Ghen Cô Vy”, một ca khúc tuyên truyền – cổ động đã lan truyền trên toàn cầu sau khi lên sóng truyền hình Mỹ và được báo chí ở hàng loạt quốc gia ca ngợi. Ca khúc, cùng vũ điệu đi kèm, giúp xây dựng nhận thức cộng đồng về loại virus mới và tầm quan trọng của việc rửa tay. Nó đã tạo ra hẳn một trào lưu quốc tế mang tên #GhenCoVydancechallenge.

Đáng chú ý hơn, khi các chiến dịch kiểm dịch được nhắm mục tiêu và bắt buộc tất cả khách du lịch, du học sinh hồi hương đã được thắt chặt vào cuối tháng 3, các cập nhật và đánh giá cá nhân về chất lượng của các khu cách ly do chính phủ điều hành, việc kiểm tra sức khỏe và xét nghiệm đã thu hút hàng ngàn phản ứng trên Facebook. Hàng trăm hình ảnh bữa sáng, bữa trưa, bữa tối và bữa ăn nhẹ được đóng gói cẩn thận đã được lưu hành rộng rãi đến mức thời gian cách ly hai tuần được ưa chuộng, điều này đã khuyến khích mọi người tuân thủ.

Khi đại dịch mỗi ngày càng trở nên tồi tệ hơn và tình hình không chắc chắn bao trùm phần lớn thế giới, kinh nghiệm của Việt Nam cho thấy bằng cách tập trung vào đánh giá rủi ro sớm, giao tiếp và hợp tác hiệu quả giữa chính phủ và công dân, một quốc gia có nguồn lực hạn chế với hệ thống chăm sóc sức khỏe bấp bênh có thể kiểm soát đại dịch. Khi đối mặt với một sức mạnh vô hình, không xác định, thông tin chính xác và sự đoàn kết trong cộng đồng sẽ trao quyền cho mọi người bảo vệ chính họ - và lẫn nhau.

Chủ đề: Kinh tế Việt Nam
Bảo Đình (Theo Project Syndicate)
  • Facebook
  • Chia sẻ
  •   Lưu tin
  •   Báo cáo

    Báo cáo vi phạm
     
Mọi ý kiến đóng góp cũng như thắc mắc liên quan đến thị trường bất động sản xin gửi về địa chỉ email: [email protected]; Đường dây nóng: 0942.825.711.