Phó Thủ tướng Lê Minh Khái đã có cuộc gặp bà Amanda Murphy, Đồng Giám đốc Khối Ngân hàng Thương mại khu vực châu Á – Thái Bình Dương của HSBC nhân dịp tham dự Hội nghị thường niên lần thứ 52 Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) tại Davos, Thụy Sĩ.
Ngày 23/5, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Hội nghị thường niên lần thứ 52 Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) tại Davos, Thụy Sĩ.
Trong chuyến đi này, Phó Thủ tướng đã có cuộc gặp bà Amanda Murphy, Đồng Giám đốc Khối Ngân hàng Thương mại khu vực châu Á – Thái Bình Dương của HSBC, để thảo luận về một trong những ưu tiên hàng đầu của Việt Nam là mục tiêu chuyển dịch sang phát thải cân bằng.
Việt Nam đã đề ra quyết tâm đạt mục tiêu phát thải các-bon ròng bằng 0 vào năm 2050 và nhất trí tham gia cam kết từng bước từ bỏ đầu tư mới điện than vào thập niên 2040 (hoặc sớm nhất có thể sau thời điểm này).
Theo HSBC, cam kết này sẽ góp phần thúc đẩy Việt Nam hướng tới nền kinh tế xanh và bền vững hơn. Kể từ sau khi đưa ra cam kết, Chính phủ đã lên nhiều kế hoạch nhằm tăng tốc tiến độ “xanh hóa Việt Nam”, đặc biệt chú trọng vào lĩnh vực năng lượng tái tạo.
“Việc sử dụng điện như một nguồn năng lượng cho hoạt động đóng vai trò quan trọng trong giảm phát thải các-bon ở các lĩnh vực kinh tế. Vì vậy, Việt Nam cần nguồn năng lượng tái tạo quy mô lớn. Đây chính là chìa khóa giúp chúng ta dần thay thế nhiên liệu hóa thạch, từ đó giảm phát thải trong vận tải đường bộ và trong nhiều hoạt động công nghiệp”, theo ông Tim Evans, Tổng Giám đốc HSBC Việt Nam.
Nhu cầu tăng nhanh, đòi hỏi nhiều vốn đầu tư
HSBC dẫn chứng, với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước, nhu cầu điện của Việt Nam được dự báo sẽ tăng lên nhanh chóng. Năm 2021, tổng vốn FDI vào Việt Nam đạt hơn 31,15 tỷ USD, hơn 18,1 tỷ USD trong đó rót vào các ngành chế biến và sản xuất vốn sẽ cần sử dụng nhiều điện. Đó là chưa kể nhu cầu điện hàng ngày của gần 100 triệu người dân và con số này còn tiếp tục tăng lên trong tương lai.
Theo Phó Thủ tướng Lê Minh Khái, tổng nhu cầu điện của Việt Nam sẽ đạt trên 100GW vào năm 2025 và 150GW vào năm 2030, trong số đó, 36GW và 50GW tương ứng sẽ là năng lượng tái tạo. Nhu cầu năng lượng tái tạo bình quân sẽ chiếm hơn 30% trong tổng nhu cầu năng lượng của cả nước. Theo đó, Việt Nam sẽ cần đầu tư 115,96 tỷ USD vào xây dựng nhà máy điện mới và mở rộng lưới điện tới năm 2030 và 227,4 tỷ USD tới năm 2045, công suất sau khi lắp đặt dự kiến lên đến 329,6 GW theo Quy hoạch Điện VIII cho giai đoạn 2021-2030. Quy hoạch cũng khuyến khích phát triển mạnh mẽ năng lượng tái tạo (ngoài thủy điện) từ khoảng 13% tại thời điểm hiện tại lên tới gần 30% năm 2030 và 44% năm 2045.
Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), Việt Nam là nước tiêu dụ điện nhiều thứ hai trong khu vực Đông Nam Á và là một trong những nước có mức tăng trưởng nhu cầu năng lượng nhanh nhất thế giới. Theo HSBC, với nhu cầu như vậy thì đòi hỏi sự tham gia của cả hai khối công và tư nhằm đảm bảo Việt Nam có đủ và đúng loại năng lượng đất nước này cần để tiếp tục phát triển bền vững.
Trong tương lai, Việt Nam sẽ cần nguồn điện “xanh và sạch” hơn để tiếp tục hỗ trợ sự phát triển kinh tế mạnh mẽ theo hướng bền vững, đặc biệt là để hiện thực hóa tham vọng cân bằng phát thải công bố tại COP26.
Như Phó Thủ tướng chia sẻ không dễ để vừa đảm bảo an ninh năng lượng để phục vụ mục tiêu tăng trưởng vừa giảm phát thải, Việt Nam cần thêm sự hỗ trợ về nguồn lực, công nghệ, năng lực quản trị để giúp giải bài toán khó này.
Ông Tim Evans cho rằng, yêu cầu từ năng lượng tái tạo, đặc biệt là từ lĩnh vực điện gió vốn đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, sẽ sớm vượt quá khả năng cho vay của nhiều ngân hàng trong nước.
Đầu năm nay, HSBC đã công bố cam kết giúp thu xếp 12 tỷ USD tài chính bền vững trực tiếp và gián tiếp cho Việt Nam tới 2030. Đây là một phần trong tham vọng của Tập đoàn HSBC bao gồm cung cấp từ 750 triệu đến 1 tỷ USD tài trợ và đầu tư bền vững đến năm 2030, cam kết này đã được nếu ra trong cuộc gặp giữa Tổng Giám đốc Tập đoàn, Noel Quinn và Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Hội nghị COP26 tháng 11 năm ngoái.
Tới thời điểm hiện tại, ông Tim Evans cho biết, HSBC đã góp phần thu xếp được 1,3 tỷ USD tài chính xanh cho nhiều dự án khác nhau ở Việt Nam, tương đương với 10% con số đã cam kết. Các dự án thuộc nhiều lĩnh vực từ phương tiện chạy điện, tòa nhà xanh, tái chế nhựa và năng lượng tái tạo.
Đề xuất xem xét một số quy định hạn chế
Theo lãnh đạo HSBC, quá trình dịch chuyển năng lượng đặt ra không ít thách thức nhưng cũng mang đến nhiều cơ hội mà chúng ta có thể cùng mở ra cho Việt Nam. Nỗ lực của Chính phủ trong việc đa dạng hóa nguồn điện với ưu tiên đặc biệt dành cho các dự án năng lượng tái tạo đã giúp Việt Nam có được vị thế quan trọng để trở thành một điểm đến đầu tư năng lượng sạch hàng đầu.
Theo đó, nhằm khai mở nguồn vốn từ nước ngoài cho lĩnh vực năng lượng tái tạo ở Việt Nam, HSBC đề xuất các cơ quan chức năng xem xét một số quy định hạn chế hiện tại như dưới đây.
Hạn chế không cho phép sử dụng khoản vay nước ngoài vào mục đích thanh toán nợ trong nước là rào cản đối với việc tái cấp vốn nước ngoài cho các khoản nợ trong lĩnh vực xanh do các ngân hàng Việt Nam cung cấp, gỡ bỏ rào cản này sẽ giúp tăng khả năng hỗ trợ các dự án trong lĩnh vực xanh của các ngân hàng Việt Nam.
Giới hạn vay đối với một khách hàng của tổ chức tín dụng làm hạn chế giá trị đảm bảo các ngân hàng Việt Nam có thể cung cấp so với Cơ quan bảo lãnh tín dụng xuất khẩu (ECA) và các tổ chức tài chính quốc tế. Chia sẻ rủi ro rất quan trọng đối với các dự án cần vốn lớn.
Xây dựng một hành lang pháp lý cho các khoản vay xanh ở Việt Nam, việc áp dụng các biện pháp đồng bộ trên toàn ngành tài chính để chứng nhận tài chính xanh là rất cấp thiết để xây dựng cơ chế giám sát hiệu quả nhằm giảm thiểu rủi ro gian lận tài chính xanh (hay còn gọi là “tẩy xanh” – greenwashing).
-
Ông Tim Evans, Tổng Giám đốc HSBC Việt Nam, cho rằng: “Với những yếu tố cơ bản vững chắc và vị thế là một trong những điểm đến đầu tư hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư quốc tế, Việt Nam hiện đang vươn lên trở thành một trung tâm sản xuất trên thế giới. Một vị thế tuyệt vời có được nhờ những chính sách ưu đãi của Chính phủ, đặc biệt trong việc ký kết các hiệp định tự do thương mại”.