Hiện một làn sóng Covid-19 mới đang tiếp tục càn quét các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Kể từ cuối tháng 4, Việt Nam đang phải đối mặt với đợt dịch bùng phát tồi tệ nhất kể từ khi đại dịch bắt đầu. Số ca nhiễm tăng nhanh, đặc biệt ở các khu công nghiệp, gây nhiều trở ngại đến hoạt động sản xuất.
Nếu như tính đến tháng 4/2021, Việt Nam chỉ ghi nhận khoảng 3.000 ca nhiễm thì tới nay con số này đã vượt 15.000. Dịch Covid-19 bùng phát tại nhiều địa phương trên cả nước với những diễn biến phức tạp, khó lường đã đặt ra nhiều thách thức, rủi ro cho trong việc thực hiện mục tiêu kép "vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế".
Bối cảnh này sẽ có thể ảnh hưởng như thế nào đến đà hồi phục kinh tế của một “ngôi sao sáng” tại Đông Nam Á như Việt Nam, cũng như tình hình tỷ giá và lãi suất sẽ như thế nào? Việt Nam cần làm gì để có thể kéo lại đà hồi phục bền vững và đúng hướng?
Về vấn đề này, ông Ngô Đăng Khoa, Giám đốc Khối ngoại hối và thị trường vốn, HSBC Việt Nam, vừa có những nhận định liên quan đến kinh tế Việt Nam trong năm nay.
Ông Ngô Đăng Khoa, Giám đốc Khối ngoại hối và thị trường vốn, HSBC Việt Nam.
Theo ông Ngô Đăng Khoa, bất chấp việc số ca nhiễm tăng nhanh, số liệu kinh tế vĩ mô 6 tháng đầu năm 2021 vẫn cho thấy những tín hiệu đáng khích lệ. Theo Tổng cục thống kê, GDP 6 tháng đầu năm 2021 tăng 5,64%, cao hơn tốc độ tăng 1,82% của 6 tháng đầu năm 2020 mặc dù còn thấp hơn cùng kỳ năm 2018 và 2019. GDP quý II/2021 ước tính tăng 6,61% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng 0,39% của quý II/2020.
Mặt khác, lạm phát duy trì ở mức tương đối ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2021 tăng 0,19% so với tháng trước, tăng 1,62% so với tháng 12/2020 và tăng 2,41% so với cùng kỳ năm 2020.
Khối Nghiên cứu HSBC dự báo lạm phát trung bình vào khoảng 2,8% trong năm 2021, thấp hơn nhiều so với mức chỉ tiêu tối đa 4% mà Quốc Hội đề ra.
Tuy nhiên, ông Khoa cũng cho rằng, mặc dù các dữ liệu vĩ mô chính của 6 tháng đầu năm vẫn cho thấy xu hướng tương đối ổn định, nhưng làn sóng dịch bệnh hiện tại có thể gây ra những áp lực đáng kể đối với mục tiêu tăng trưởng GDP 6,5% đã đề ra trong năm nay.
Để phục hồi bền vững trở lại đúng hướng, theo ông Nguyễn Đăng Khoa, điều quan trọng là phải nhanh chóng ngăn chặn đà lây lan của virus và đẩy nhanh chương trình tiêm chủng toàn quốc. Với việc phải đóng cửa nhiều khu công nghiệp và giãn cách xã hội kéo dài, chắc chắn đà tăng trưởng trong quý 3 nói riêng và nửa sau của năm 2021 đặt ra rất nhiều thách thức. Do đó, cần có những chính sách kịp thời cả về tài khóa và tiền tệ nhằm hỗ trợ hơn nữa cho doanh nghiệp và người dân vượt qua những khó khăn này.
Về tỷ giá, tiếp nối xu hướng biến động mạnh của năm 2020, trải qua 6 tháng đầu năm nay đồng USD vẫn cho thấy nhiều biến động mạnh. Với việc đồng bạc xanh tăng mạnh trở lại, các đồng tiền trong khu vực châu Á chịu áp lực suy yếu tương ứng, và đồng Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Mặc dù trong hầu hết thời gian 6 tháng đầu năm 2021, tỷ giá USD/VNĐ đa phần giao dịch trong biên độ 23.010-23.100 với xu hướng thiên về tiền Đồng tăng giá, nhưng dường như tình hình có xu hướng đảo ngược sau kì họp gần nhất của Fed.
Cụ thể, NHNN đã tiếp tục mua vào lượng lớn ngoại tệ qua nghiệp vụ kỳ hạn, trước khi quyết định hạ giá mua 150 đồng xuống 22.975 vào tuần đầu tháng 6, cho thấy dư địa để VNĐ có thể tăng giá thêm trong ngắn hạn. Tuy nhiên, nhìn về trung và dài hạn, đặc biệt từ nay đến cuối năm, vẫn không bỏ ngỏ khả năng VNĐ chịu áp lực mất giá trở lại với mức dự báo 23.100 vào cuối năm nay. Một trong những nguyên nhân có thể kể đến như cán cân thương mại chuyển sang nhập siêu, mối lo về giá cả hàng hóa cao hơn cùng khả năng lãi suất Mỹ bước vào chu kỳ tăng trở lại.
Nhìn chung, theo ông Khoa, có một điều khá chắc chắn rằng tỷ giá USD/VNĐ sẽ khó duy trì được xu hướng bình ổn như đã từng trải qua trong 6 tháng cùng kỳ 2020, thay vào đó sẽ có nhiều biến động hơn trong 6 tháng cuối năm, đến từ biến động trên thị trường quốc tế, đặc biệt là các động thái của Fed trong những tháng tiếp theo, cũng như những rủi ro nội tại mà Covid-19 tạo ra.
Về lãi suất, tình trạng vật giá leo thang đang khiến thị trường tài chính bắt đầu tỏ ra quan ngại khi ngân hàng trung ương (NHTW) các nước bắt đầu phải tính đến chuyện siết van thanh khoản và nâng lãi suất điều hành. Tuy nhiên, mối lo ngại này dường như tập trung nhiều hơn ở các quốc gia phương Tây, trong khi đó ở các quốc gia châu Á, bao gồm Việt Nam, chưa cho thấy áp lực của lạm phát khi áp lực chủ yếu đến từ giá cả đầu vào thay vì cầu kéo.
Nhưng nếu đặt trong bối cảnh lạm phát tiếp tục duy trì ở mức cao trong thời gian dài thay vì mang tính thời điểm, thì khả năng nâng lãi suất điều hành là có thể xảy ra, theo ông Khoa.
Ở mặt khác, cơ quan điều hành cũng cần cân nhắc để tránh việc nâng lãi suất quá sớm và/hoặc quá nhanh trong bối cảnh kinh tế vẫn còn chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề từ dịch bệnh.
Do đó, theo ông Khoa, các doanh nghiệp cần tiếp tục chủ động trong các nghiệp vụ phòng vệ rủi ro, bao gồm rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất, thông qua các sản phẩm mà NHNN cấp phép, nhằm đạt mục đích quản trị rủi ro trong kinh doanh.