Một số ý kiến khác có thể diễn dịch theo kiểu “hàng hai”, nghĩa là vừa
muốn kiềm chế lạm phát nhưng lại vừa muốn cắt giảm lãi suất, vừa đề xuất
tung mạnh thêm tiền ra lưu thông đồng thời đòi hỏi phải kiểm soát chặt
mục đích sử dụng vốn (?).
Trong khi đó, các nhà hoạch định chính sách buộc phải cân nhắc nhiều
mặt để điều hành lãi suất sao cho hợp lý mà không làm phương hại đến mục
tiêu hàng đầu là kiềm chế lạm phát. Cũng nên lưu ý đến đặc thù riêng
của nền kinh tế Việt Nam đó là bộ phận kinh tế ngầm và đầu cơ vẫn còn
chiếm tỷ trọng khá lớn, có nguy cơ biến tướng ngoài vòng chi phối của hệ
thống pháp luật, đây là tác nhân thường trực dễ gây tác động xấu đến
hiệu lực điều hành vĩ mô, trong đó có chính sách lãi suất.
Có vẻ như chúng ta đang cố gán cho lãi suất những vai trò mà khả năng
thực thi trong thực tế là mâu thuẫn nhau. Vô hình trung, có thể dẫn đến
việc tước bỏ đi một công cụ điều hành hữu hiệu nhất nhằm kiểm soát lạm
phát hiệu quả. Cần nhấn mạnh rằng, trong giai đoạn hiện nay, sứ mệnh vĩ
mô hàng đầu không thể bàn cãi của lãi suất chính là tác động trực tiếp
làm giảm tổng cầu, qua đó điều chỉnh sự mất cân đối quan hệ tiền tệ -
hàng hóa trong toàn bộ nền kinh tế, thiết lập lại tiến trình ổn định giá
cả, đồng thời triệt tiêu dần những động cơ dẫn đến lạm phát cao. Trên
thực tế, tư tưởng chỉ đạo này đã được thể hiện khá chuẩn xác trong Nghị
quyết 11 khi Chính phủ đưa ra hai yêu cầu tiên quyết phải thực hiện:
(1) Chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, (2) Chính sách tài khóa
thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước.
Vấn đề đặt ra không chỉ là năng lực tổ chức thực hiện đến đâu mà quan
trọng hơn chính là sự nhận thức đúng và kiên trì với mục tiêu đã đề ra.
Làm ăn khó khăn đâu chỉ vì lãi suất cao
Trong nền kinh tế hiện đang diễn ra sự phân hóa ngày càng rõ nét. Bộ
phận doanh nghiệp có năng lực tài chính ổn định, kỹ năng quản trị tốt,
sản xuất kinh doanh đúng định hướng chiến lược, có uy tín, tranh thủ
được cơ hội, mặc dù đối đầu không ít khó khăn nhưng vẫn có thể lèo lái
để vượt qua thử thách trong giai đoạn hiện nay. Những doanh nghiệp này
có lợi thế là luôn được hệ thống ngân hàng ưu tiên yểm trợ tín dụng với
mức lãi suất thỏa đáng. Đặc biệt những doanh nghiệp xuất khẩu có uy tín
thường xuyên được ngân hàng chăm sóc bằng nguồn tín dụng ưu đãi lãi suất
thấp (17% bằng đồng Việt Nam hoặc 4% bằng đô la Mỹ). Bên cạnh đó, nhiều
doanh nghiệp bắt đầu bộc lộ rõ hơn những “gót chân Asin” của mình. Có
thể liệt kê ra một số dạng cơ bản:
(1) Tình trạng công nợ dây dưa phát sinh lớn do ảnh hưởng của việc thắt
chặt chi tiêu công và hạn chế tín dụng, khả năng thanh toán bị suy
giảm, dẫn đến áp lực nợ xấu ngân hàng gia tăng. Tình trạng đáng báo động
hiện nay là kỷ luật thanh toán trong nền kinh tế rất lỏng lẻo, nợ chậm
thanh toán giữa chủ đầu tư và nhà thi công nhiều khi kéo dài hàng năm
trời nhưng vẫn không có một chế tài pháp luật nào để xử lý.
(2) Do kinh tế thế giới suy giảm, thị trường bị thu hẹp, chi phí sản
xuất gia tăng do lạm phát và lãi suất cao, doanh nghiệp không thể đương
đầu với khó khăn, đánh mất thị trường và đối tác, buộc phải thu hẹp hoặc
sản xuất cầm chừng, thậm chí có nguy cơ đóng cửa, phá sản công khai
hoặc ngấm ngầm.
(3) Định hướng kinh doanh của một bộ phận doanh nghiệp bị chệch hướng,
chuyển sang kinh doanh ngoài sở trường, chạy theo lợi ích nhất thời dẫn
đến kẹt vốn, kém hiệu quả, thậm chí lỗ lớn, khó tránh khỏi nguy cơ lụn
bại… Hơn khi nào hết, lãi suất đang nhắn gửi một thông điệp vô cùng quan
trọng đến toàn thể các doanh nghiệp và nền kinh tế, đó là nên cân nhắc
cẩn trọng hơn về cách thức sử dụng nguồn lực vốn liếng vốn dĩ còn rất
khan hiếm và quý giá của đất nước.
Xu hướng phân hóa nói trên đang diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh và bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân nội tại chứ không hẳn
chỉ do yếu tố lãi suất cao như dư luận tập trung phê phán trong thời
gian vừa qua. Lãi suất cho vay hiện nay ở các tổ chức tín dụng cũng đang
bắt đầu có sự phân hóa theo từng đối tượng khách hàng trên cơ sở vận
dụng tính linh hoạt của cơ chế lãi suất thỏa thuận. Theo đó, khách hàng
có uy tín sẽ được ưu tiên tiếp cận tín dụng với lãi suất thấp hơn lãi
suất thông thường công bố trên thị trường. Những loại hình kinh doanh ẩn
chứa nhiều rủi ro hoặc thuộc diện hạn chế sẽ bị áp lãi suất cao.
Tự bản thân ngân hàng đã đến lúc cũng phải biết ứng xử như thế nào cho
phù hợp nếu họ muốn cùng tồn tại và phát triển với khách hàng của chính
mình. Có thể nói sự phân hóa này đang diễn ra một cách tự nhiên và là
“cái neo” quan trọng để giữ cho lãi suất vận hành theo đúng quy luật thị
trường mà không phải gánh chịu bất kỳ sức ép hành chính nào.
Tuy nhiên, đằng sau bài toán lãi suất luôn ẩn hiện hai bóng dáng có lẽ
là đáng sợ và đáng kính nhất: lạm phát và Ngân hàng Trung ương. Không
nghi ngờ gì nữa, kiểm soát chặt chẽ lạm phát phải là ưu tiên hàng đầu
nếu muốn thực thi chủ trương giảm dần lãi suất trong thời gian đến.
Mặt khác, nếu xem mong muốn của tân Thống đốc “giảm lãi suất cho vay về
17-19%” như là định hướng quan trọng nhất của chính sách tiền tệ thì
câu hỏi đặt ra là làm sao để tranh thủ và phát huy những nhân tố thuận
lợi đang le lói xuất hiện? Lạm phát bắt đầu có dấu hiệu giảm nhiệt. Một
số ngân hàng thương mại bắt đầu cho vay trong mức lãi suất Thống đốc chỉ
đạo. Vấn đề còn lại là chủ động tạo ra “cú hích” đủ mạnh, đủ liều lượng
nhằm phát động hiệu ứng lan tỏa tích cực trên toàn bộ thị trường vốn.
Quả bóng, chắc chắn như vậy, đang nằm ở phía Ngân hàng Nhà nước.